Chuyên đề 3: Thơ kháng chiến (1945-1954) - Vấn Đề 1: Tây Tiến

Tóm tắt Chuyên đề 3: Thơ kháng chiến (1945-1954) - Vấn Đề 1: Tây Tiến: ...Pháp kinh hoàng. Như trận Dốc Đẹt ( trên đường từ Phố Vàng sang Mườn Bi) có những chiến sĩ sốt rét run cầm cập, vẫn nằm nguyên ở vị trí chiến đấu, bắn súng, ném lựu đạn, vần đá từ trên cao xuống tiêu diệt địch. Bọn giặc sống sót phải rút lui xuống Suối Rút . Đoàn quân tây Tiến, sau một thời gi... hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ. Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, tro...i”, hương của núi rừng, của Mai Châu, và hương của tình thương mến. Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, ...

pdf11 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Chuyên đề 3: Thơ kháng chiến (1945-1954) - Vấn Đề 1: Tây Tiến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 báo hiệu một đồng chí qua đời vì sốt rét. Thuốc chữa bệnh rất hiếm, nhất là món Ký ninh vàng. 
Mỗi buổi sáng, cô y tá bỏ vài viên vào một chai nước. Mỗi bệnh nhân được uống một chén. Thơ Quang 
Dũng viết “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” là nói về những cái đầu cạo trọc để khi đánh giáp lá cà, 
Tây cũng không nắm được chiến sĩ ta. Nhưng “ không mọc tóc” còn có nghĩa sốt rét đến nỗi tóc cũng 
không mọc được. “ Quân xanh màu lá” vì sốt rét như thế mà “ vẫn dữ oai hùm” nhiều trận đánh làm cho 
giặc Pháp kinh hoàng. Như trận Dốc Đẹt ( trên đường từ Phố Vàng sang Mườn Bi) có những chiến sĩ sốt 
rét run cầm cập, vẫn nằm nguyên ở vị trí chiến đấu, bắn súng, ném lựu đạn, vần đá từ trên cao xuống tiêu 
diệt địch. Bọn giặc sống sót phải rút lui xuống Suối Rút . 
Đoàn quân tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội 
trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa 
bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh anh viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ vừa ra đời đã được đọc trong và ngoài 
quân đội truyền tay, truyền miệng cho nhau. Trong tập “thơ” do nhà xuất bản Vệ quốc quân liên khu III 
ấn hành năm 1949, bài thơ có nhan đề là “ Nhớ Tây Tiến”. Năm 1957, khi đưa bài này vào tập “ Rừng 
biển quê hương” ( in chung với Trần Lê Văn – Nhà Xuất Bản hội nhà văn) Quang Dũng bỏ chữ “Nhớ”, 
chỉ lấy hai chữ “ Tây Tiến” 
 Trần Lê Văn( bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng 
 In trong Nhìn nhận lại một số hình tượng Văn học. 
 Báo Giáo viên nhân dân, số đặc biệt(27-28-29-30-31) tháng 7/1989, 
TR..41) 
II. CÂU HỎI
 1/ Kể tên ba bài thơ viết về người lính trong buổi đầu kháng Pháp đã được học và đọc thêm ở 
chương trình văn trung học. Mỗi bài chép lại vài câu tiêu biểu. 
 2/ Thí sinh hiểu gì về bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng. 
III.LÀM VĂN 
 Đề 1: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “ Tây Tiến” của Quang Dũng: 
 “Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi ! 
 Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi 
 Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi 
 Mường Lát hoa về trong đêm hơi 
 Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm 
 Heo hút cồn mây, súng ngửi trời 
 Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống 
 Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi 
 Anh bạn dãi dầu không bước nữa 
 Gục lên súng mũ bỏ quên đời ! 
 Chiều chiều oai linh thác gầm thét 
 Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người 
 Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói 
 Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” 
 * Bài làm 
 Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân thù và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ 3. 
Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc 
còn đầy thử thách gian nan. Cuộc kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu 
phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng. 
 Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết 
về “anh bộ đội Cụ Hồ” nối tiếp nhau xuất hiện: “Lên Tây Bắc” (Tố Hữu), “Đồng Chí” (Chính Hữu), 
“Nhớ” (Hồng Nguyên) và “Tây Tiến” của Quang Dũng. 
 Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền 
hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản 
mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại 
hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống 
Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang. 
 “Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh 
Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng 
vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu. 
 Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu: 
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ! 
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” 
 Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ 
“chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt 
vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào 
thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương 
nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây 
Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian 
khổ hiện về trong tâm tưởng. 
 Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh 
Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai 
Châu được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa 
xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc, Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở 
mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương 
mù giữa núi rừng trùng điệp: 
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, 
Mường Lát hoa về trong đêm hơi” 
 Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua. 
Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy: “khúc 
khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc 
lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi 
súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ 
đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ 
chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên 
nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên 
lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế 
tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi 
rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ. 
 Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng 
những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ 
vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về 
những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu 
và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn. 
 Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn 
mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu: 
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét 
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” 
 “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn 
khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ 
Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của 
đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà 
cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên 
nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng 
cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ: 
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa 
Gục lên súng mũ bỏ quên đời” 
 Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu 
đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương. 
 Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như 
tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào: 
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói 
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” 
 “Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc 
tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp 
xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao 
tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương 
nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”. 
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch 
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng 
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch 
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương” 
 “Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, 
nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. 
 Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay nhất viết về 
người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên 
hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “ Chiến trường 
đi chẳng tiếc đời xanh”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công, là 
kết hợp hài hoà giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “ Tây 
Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá 
 Đề 2: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “ Tây Tiến” của Quang Dũng: 
 “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, 
 Kìa em xiêm áo tự bao giờ 
 Khèn lên man điệu nàng e ấp 
 Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ 
 Người đi Châu Mộc chiều sương ấy 
 Có thấy hồn lau nẻo bến bờ 
 Có nhớ dáng người trên độc mộc 
 Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa 
 Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
 Quân xanh màu lá dữ oai hùm 
 Mắt trừng gửi mộng qua biên giới 
 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm 
 Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
 Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 
 Áo bào thay chiếu anh về đất 
 Sông Mã gầm lên khúc độc hành” 
BÀI LÀM 
“Tây Tiến” là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân năm xưa, 
những anh hùng buổi đầu kháng chiến “ áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (“ Nhớ” – Hồng Nguyên), 
những tráng sĩ ra trận với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. 
Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh bên bờ sông Đáy thương 
yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc – Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng” (Mắt người Sơn Tây 
– 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947, hoạt động và chiến đấu ở thượng 
nguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa sang Sầm Nứa, trên dải biên cương Việt – Lào. Quang 
Dũng là một đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người là những chàng trai Hà 
Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ “Tây Tiến” nói lên nỗi nhớ của tác giả sau một thời gian xa rời 
đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” 
Bài thơ gồm có 4 phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn 
binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian khổ Đoạn thơ trên đây gồm có 
16 câu thơ, là phần 2 và phần 3 của bài thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh 
đầy tự hào về đồng đội thân yêu. 
Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, 
người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa: 
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói 
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” 
Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của “thơm nếp xôi”, hương của núi rừng, của 
Mai Châu, và hương của tình thương mến. 
Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ 
niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến: 
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, 
Kìa em xiêm áo tự bao giờ 
Khèn lên man điệu nàng e ấp 
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” 
 “Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong văn học 
cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều – 3096). Quang Dũng đã có một sự nhào 
nặn lại: hội đuốc hoa – đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. “Bừng” chỉ ánh 
sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng 
bừng rộn rã. Sự xuất hiện của “em”, của “nắng” làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỉ niệm đẹp một thời 
chinh chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô phù xao Lào xinh đẹp, duyên dáng 
“e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng 
các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là đại từ để trỏ, đứng đầu câu “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng 
trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách, như đã bị đẩy lùi và tiêu tan. 
 Xa Tây Tiến mới có bao ngày thế mà nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa”, nhớ “chiều 
sương Châu Mộc ấy”. Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Bao kỉ niệm sâu sắc và thơ 
mộng lại hiện lên và ùa về: 
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy 
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ 
Có nhớ dáng người trên độc mộc 
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” 
 Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một 
nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là 
nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau 
trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có 
thấy” rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như 
những kỉ niệm trở về Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền độc mộc 
“trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái “dáng 
người trên độc mộc” trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp 
thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền “chiều sương ấy”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man 
mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này. 
Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả 
được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài 
hoa. 
Phần ba bài thơ nói về đoàn binh Tây Tiến. Quang Dũng sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên 
bức chân dung những đồng đội thân yêu của mình. Ở phần một nói về con đường hành quân vô cùng gian 
khổ để khắc hoạ chí khí anh hùng các chiến sĩ Tây Tiến; Phần hai, đi sâu miêu tả vẻ đẹp lãng mạn của 
những chiến binh hào hoa, yêu đời. Phần ba này, người đọc cảm thấy nhà thơ dang nhớ, đang ngắm nhìn, 
đang hồi tưởng, đang nghĩ về từng gương mặt thân yêu, đã cùng mình vào sinh ra tử, nếm trải nhiều gian 
khổ một thời trận mạc. Như một đoạn phim cận cảnh gợi tả cái dữ dội, cái khốc liệt một thời máu lửa oai 
hùng. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc hun đúc qua 4.000 năm lịch sử được nâng lên tầm vóc mới của 
chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh: 
 “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
 Quân xanh màu lá dữ oai hùm 
 Mắt trừng gởi mộng qua biên giới 
 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” 
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm thấy trong khói 
lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “ Đoàn binh 
không mọc tóc”, “ Quân xanh màu lá”, tương phản với “ dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh 
hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục 
xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung 
trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” 
là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần; “ Tướng sĩ kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” là tầm 
vóc các nghĩa sĩ Lam Sơn. “ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là chí khí lẫm liệt hiên ngang của anh bộ đội 
cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “ 
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”; Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng “ xác thù chất đống xây thành 
chiến công”. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “ mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh trại có 
những cơn mơ đẹp: “ đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “ dáng kiều thơm” từng in dấu vết trong 
văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “ đắt” cái phong độ 
hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói 
lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng 
kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó 
chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ. 
 Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt của những 
anh hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên 
như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên 
bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Rải rác biên cương mồ viễn 
xứ” Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu. 
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”, nhưng Tổ 
quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như một loạt đại bác 
nổ xé trời, “khúc độc hành” ấy đã tạo nên không khí thiêng liêng, bi tráng và cao cả: 
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 
Áo bào thay chiếu anh về đất 
Sông Mã gầm lên khúc độc hành” 
 Các từ Hán Việt xuất hiện bất ngờ trong đoạn thơ (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, 
khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ kính, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh. Có xót xa thương 
tiếc. Không bi lụy yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến trường đi 
chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là một trong 
những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các 
chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động 
như thế: 
“Họ đã sống và chết 
Giản dị và bình tâm 
Không ai nhớ mặt đặt tên 
Nhưng họ đã làm ra Đất nước” 
(“Đất nước” - Nguyễn Khoa Điềm) 
Những tháng năm chiến tranh đã đi qua. Đoàn binh Tây Tiến những ai còn ai mất, những ai đã 
“lấy đá ven rừng chép chiến công”? “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?” – xưa nay, buổi chiến tranh, mấy ai 
đi chinh chiến còn trở về? 
Đoạn thơ trên đây cho thấy cái tâm đẹp và cái tài hoa của Quang Dũng. Nếu Chính Hữu, qua bài 
“Đồng Chí” đã nói rất hay về người nông dân mặc áo lính, thì Quang Dũng, với bài thơ “Tây Tiến” đã 
dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng 
cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Anh hùng, hào hoa là hình ảnh 
đoàn binh Tây Tiến. 
Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. 
Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì “Tây Tiến” đã cho ta cảm nhận về ấn 
tượng ấy. “Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính – anh bộ đội cụ Hồ 
những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca 
ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. 
Đề 3: Khổ kết bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng 
 (Học sinh tự soạn) 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_de_3_tho_khang_chien_1945_1954_van_de_1_tay_tien.pdf