Đi tìm tạp chí phổ biến khoa học đầu tiên ở Việt Nam: "Khoa-học tập-chí"
Tóm tắt Đi tìm tạp chí phổ biến khoa học đầu tiên ở Việt Nam: "Khoa-học tập-chí": ...oloniale (1894-1895) rồi vào Trường Kỹ sư Canh nông Paris (Institut National Agronome), nơi ông tốt nghiệp kỹ sư canh nông năm 1897, là người kỹ sư đầu tiên của Nam Kỳ (và nhiều khả năng cũng là của cả nước). - Ông Lưu Văn Lang, sinh năm 1880, tốt nghiệp kỹ sư tại Trường Arts et Manifactures ... trai và gái, còn thiếu niên đương lúc vào trường ấu học, tiểu học hay là khi ở nhà mà giúp đỡ cho cha mẹ làm ăn. “Chúng tôi thầm nghĩ rằng đương lúc cạnh tranh lợi quyền trong thiên hạ, mỗi người phải có học chút đỉnh theo tân thời, mới có thế mà giữ gìn thân thể, theo cách vệ sanh, rồi mới ... sao ngày ngắn dài, với nhiều hình vẽ (vẽ tay). Số 7-10 có các bài “Gió, mưa, đất động và núi lửa”, “Nước lớn và nước ròng” của Lâm Văn Huê, bài cuối này giải thích hiện tượng thủy triều theo thuyết hấp dẫn của Newton. Số 21, kỹ sư Nguyễn Khắc Sự bắt đầu loạt bài “Địa cầu tạo thành sử”, “nói v...
ớng của chính phủ Nam Kỳ tự trị (02/6/1946) trước khi tự tử (10/11/1946) vì thấy bị Pháp lừa. Ông Nguyễn Văn Xuân là tướng trong quân đội Pháp, cũng là Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quân đội của chính phủ Nam Kỳ tự trị. Ông Lưu Văn Lang đã từ chối khi được mời vào chính phủ Trần Trọng Kim cũng như chính phủ Nguyễn Văn Thinh, mà ngược lại, nhận lời làm cố vấn Hội trưởng Hội Liên Việt Sài Gòn-Chợ Lớn năm 1948, rồi tham gia dẫn đầu đoàn biểu tình trong đám tang học sinh Trần Văn Ơn ở Sài Gòn năm 1950. Thế nhưng, điều đáng chú ý là việc các ông tham gia tích cực tờ tạp chí khoa học phổ thông đầu tiên này không hề được ghi nhận trong các tiểu sử, bài viết về các ông (mà chúng tôi đọc được khi viết bài này). Phải chăng, điều này cũng phản ánh phần nào sự thờ ơ của cả xã hội Việt Nam đối với khoa học? Ngoài ban biên tập, tạp chí có được sự cộng tác của Paulus Của tức nhà từ điển học Huình Tịnh Của trong mục văn chương (không đều lắm), và của một vài kỹ sư và công chức như ông Alexis Lan, Ingénieur électricien (điện); Hồ Công Mên, Ingénieur de l’Ecole de papeterie de Grenoble (giấy); Nguyễn Khắc Sự, Ing. Chimiste, Licencié 75Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016 ès Sciences (hóa); Lê Văn Thọ, Professeur; Tống Phước Gi, Đốc biện Sở nuôi tằm Đồng Hới; Đinh Mạnh Triết, Chef de là station sericicole de Tan Chau (tơ tằm) Hai cộng tác viên viết nhiều là các ông Thanh Tân Võ Thành Vinh (thường chỉ ký Thanh Tân hoặc T.T.) với nhiều bài dịch về khoa học thường thức và cả một số bài văn chương, và ông Nguyễn Tịnh, cũng đủ loại bài thường thức, kể cả về luật pháp. Một số người ký bút hiệu hoặc ký tắt như Mai Nham, Thanh Phong, Minh Nguyệt, L.H., T.H., nói chung khó có thể biết tên tuổi thật và nghề nghiệp của họ. Ngoài ra, tạp chí còn đăng lại một số bài của Vệ Nông báo, hay dịch bài của các báo Pháp thời đó (Le Saigon républicain, Bulletin de l’Agriculture). Nội dung Khoa-học Tập-chí Trang 2 của số 1 được dành cho lời đề tặng: A M. le docteur COGNACQ,(9) Ancien Directeur Général de l’Instruction Publique, Organisateur de Enseignement Supérieur en Indochine Faible témoignage de reconnaissance pour sa sincere Et affectueuse sollicitude pour la jeunesse annamite KHOA HỌC TẬP CHÍ (Kính dâng bác sĩ Cognacq, cựu Tổng giám đốc Nha Học chính, người tổ chức giáo dục đại học ở Đông Dương, chứng từ tri ân nhỏ bé đối với sự chăm sóc chân thành và trìu mến của ông đối với tuổi trẻ An Nam). Tiếp theo là Tiểu dẫn nói lên tôn chỉ, mục đích của tờ báo, chúng tôi xin gõ lại dưới đây, tôn trọng hoàn toàn chính tả, cách viết - chẳng hạn, dấu gạch nối giữa các từ kép khi có khi không, phần nhiều là không: “Từ xưa đến nay, học trò xứ ta đều đua nhau mà học văn chương theo sách tàu; mới chừng 50 năm trở lại, từ khi nhà nước Langsa bão hộ Đông-Pháp, thì con nhà Annam mới khởi sự học theo sách mới, bát vật, hóa học, cùng chư công bá nghệ, mong theo kịp đường tấn bộ trên thế giới. Song số học trò Annam mà học được cái cách mới ấy hãy còn hiếm hoi lắm, là vì trước phải học chữ Pháp cho rành rẽ rồi sau mới hiểu được các sách về khoa học, công nghệ thương mãi, thảy đều biên bằng chữ Pháp. “Chúng tôi là một bọn Annam, nhờ ơn Đại-Pháp dạy dỗ, kẻ theo nghề thương mãi, người chuyên y khoa, canh nông công nghệ tuy không dám xứng tài bằng bậc danh sĩ bên Âu, bên Mỹ, chớ cũng có học lỏm được chút ít để phòng mà di truyền cho em cháu, những trai và gái, còn thiếu niên đương lúc vào trường ấu học, tiểu học hay là khi ở nhà mà giúp đỡ cho cha mẹ làm ăn. “Chúng tôi thầm nghĩ rằng đương lúc cạnh tranh lợi quyền trong thiên hạ, mỗi người phải có học chút đỉnh theo tân thời, mới có thế mà giữ gìn thân thể, theo cách vệ sanh, rồi mới có nhà đông, người mạnh, nước thạnh, dân khôn, thì nhiên hậu công nghệ, thương mãi, canh nông mới tấn phát được nơi xứ Đông-pháp nầy. “Vì các lẽ ấy nên anh em chúng tôi đồng tâm hiệp lực mà lập ra “Khoa học Tập chí” nầy, chỉ mong ra công mọn mà rãi cho khấp hương thôn, xả hội, những bài tiểu 76 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016 học, sơ học, về khoa học ngỏ hầu mở mang cho lớp hậu sanh xứ này rộng nghe xa thấy, gọi là đền cơm áo cho Nước-nhà. “Ấy vậy, chúng tôi xin những đứng bực thượng lưu danh sĩ, chỉ biết rằng chúng tôi có lòng cùng xứ sở, muốn làm việc có ích lợi chung, không nài công khó nhọc, dẫu có lầm lỡ, lời thô, tiếng kịch thì Độc-giã miễn thứ cho chúng tôi. Đầu dở sau hay, vì vạn sự khởi đầu nang. “Trong các bài vở, thì dùng những tiếng thường, tránh văn hoa, sợ e đàng em không hiểu, song cũng có khi phải dùng tiếng mới mà giãi ý mới; tiếng Annam ta còn thiếu dùng về khoa học nên chư độc-giã, ai có ý kiến nào riêng xin lấy lời phong nhã mà tỏ bày thì chúng tôi sẵn lòng suy xét làm cho được nhuần lời nhuần tiếng theo tân học đương thời. “Tờ “Khoa-học Tập-chí” nầy là tờ mới bày ra lần thứ nhứt trong xứ Đông-pháp, chúng tôi xin gởi cho chư-tôn đặng để nhà cho các em, hoặc trai hoặc gái, có công đọc thì chẳng nhiều cũng ít sẽ được rộng thấy xa nghe về đường văn minh tấn-bộ. “Kính cáo, KHOA-HỌC TẬP-CHÍ” Như vậy, theo như lời đề tặng và Tiểu dẫn này, ta có thể thấy những người chủ trương tạp chí hoàn toàn đặt mình vào vị trí của người dân bảo hộ, “xứ Đông-Pháp”, biết ơn nhà nước bảo hộ và muốn truyền bá cái học tân thời cho lứa thiếu niên, không kể trai gái, để họ mở rộng tầm mắt mà tiến tới văn minh. Ở đây không bàn về khía cạnh chính trị của “lập trường” này mà chỉ tập trung vào những nội dung mà tạp chí đã thực hiện. Như trang mở đầu số 1 cho thấy, tạp chí được chia thành những mục sau: 1/ Canh nông; 2/ Thương mãi và kỹ nghệ; 3/ Luật pháp; 4/ Y học, Vệ sanh; 5/ Thú y; 6/ Khoa học vật lý và tự nhiên; 7/ Xây dựng; 8/ Văn chương; 9/ Thời sự trong tuần. Các bài về nghề nông luôn luôn được xếp vào đầu mỗi số, nhiều khả năng là do vị trí thủ lãnh của ông Bùi Quang Chiêu với rất nhiều bài viết (khi thì “Canh nông lược luận”, khi thì “Thảo mộc lược luận”, khi thì về các loài sâu bọ, cầm thú có ích cho canh nông, khi thì về các loại phân bón, v.v), tuy cũng có thể thứ tự này phản ánh nhận thức chung của ban biên tập, rằng nông nghiệp là vấn đề quan trọng nhất cho việc hiện đại hóa đất nước. Nghề trồng dâu nuôi tằm được Bùi Quang Chiêu đặc biệt chú ý với nhiều bài từ số 31 tới số 48, trong đó, số 45 có một bài thú vị, mang tít “Số tơ trong thiên hạ” và mở đầu bằng câu “Năm 1923, người ta phỏng định số tơ trong thiên hạ ươm ra được 34 triệu kg” nhưng thật ra là để nói về nghề tơ tằm ở Đông-Pháp (Bắc Kỳ, An Nam và Nam Kỳ). Nhưng ngay cả khi ông vắng mặt, các bài về nghề nông vẫn được xếp hàng đầu (như các bài nghề tơ tằm của Tống Phước Gi, Nguyễn Văn Long, của Bulletin de l’Agence Economique được mang về đây, hoặc loạt bài về cây mía và nghề làm đường - từ số 80 đến số 91, dịch sách của tác giả H. Prêtre). Có thể nói, mục này đã tụ tập khá nhiều những kiến thức khoa học cơ bản về nghề nông thời đó, với những áp dụng cụ thể vào nghề nông của “Nam Kỳ”, những kiến thức – chẳng hạn về 77Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016 các loại phân bón, về sự có ích của một số loài sâu bọ – mà nông dân ta chưa có hoặc chỉ có một phần qua kinh nghiệm của cha ông chứ chưa hề được tổng kết, khái quát hóa. Đáng tiếc là không có một nghiên cứu nào về ảnh hưởng, tác động của các bài trong mục này vào nông thôn Nam Bộ thời ấy. Tờ báo cũng không có mục đối thoại với bạn đọc để có thể đo lường ảnh hưởng này. Ông Trần Văn Nhiều, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Thương mại Paris là cây bút chính của mục 2 (Thương mãi và kỹ nghệ), với một loạt bài về “Cuộc buôn bán”, rồi “Luật buôn”, kéo dài từ số 1 tới số 61 (trung bình mỗi số 2 trang), đề cập tới nhiều khía cạnh: cách giữ sổ sách, giấy tờ của nhà buôn, các hội buôn, v.v Sau một thời gian vắng mặt, ông trở lại vào số 106 với bài “Người buôn bán Annam phải có tính chơn chất và nhiệt thành”, và rải rác trong một vài số sau, chẳng hạn bài “Tại làm sao mà mỗi vật có giá trị”, đưa ra lý thuyết kinh tế giản đơn: hàng hiếm thì đắt. Có thể xếp vào mục 2 một loạt bài “Công nghệ đời nay” (nghề in chữ, nghề in hình, nghề làm cà phê, nghề may áo quần) và “Bá nghệ lược giải” (hay “Giải sơ bá nghệ”), gồm nghề in bông, nghề in vải, nghề làm đồ nguội, nghề làm bún, làm rượu, nghề soi sáng, nghề làm diêm quẹt Hai bác sĩ Nguyễn Văn Thinh và Trần Văn Đôn thay nhau viết các bài y học thường thức, “Ấu học vệ sanh” (nhiều số báo), các bệnh thường gặp (như bệnh mùa, số 19, bệnh tả, số 22, sốt rét, số 30-33, bệnh ghẻ ngứa, số 48, “fièvre typhoid” hay bịnh ban cua lưỡi trắng, số 51, bệnh lao, số 65 v.v). Bác sĩ thú y Nguyễn Văn Dung có nhiều bài về các thú nuôi, với các bệnh tật chúng mắc phải, trong đó có loạt bài “Vi trùng lược luận” (các số 9-11), đây có lẽ là lần đầu tiên khái niệm “vi trùng” và tên Pasteur được trình bày trên một tờ báo tiếng Việt (tuy Viện Pasteur đã được mở ở Sài Gòn từ năm 1890, nhưng đó là một đơn vị trực thuộc Viện Pasteur Paris). Mục xây dựng, một năm sau khi được chào mừng vừa cùng gia đình từ Pháp về (số 37), ông Nguyễn Văn Xuân đóng góp một loạt bài từ số 90 đến số 110 (có nhảy 1, 2 số) về “Cách cất nhà”, từ kỹ thuật tới luật lệ, và hai bài về “Lợi hại của máy bay”. Có lẽ mục khoa học tự nhiên đặt cho tạp chí nhiều khó khăn hơn cả, vì trong ban biên tập thì không có chuyên gia, ngoài xã hội thời đó số cử nhân khoa học chắc cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay,(10) mấy ai quan tâm tới những vấn đề khoa học cơ bản (lý-hóa-sinh, toán)! Nhưng tạp chí cũng vẫn có nhiều bài viết và dịch về những kiến thức khoa học cơ bản. Số 1 có bài “Đất động bên nước Nhựt Bổn” của Lưu Văn Lang, cắt nghĩa sơ lược tại sao có động đất (ruột Trái đất nóng, vỏ cứng mà mỏng, khi nhíu lại thì dễ rách, lý thuyết về các mảng kiến tạo - plaques techtoniques - của Alfred Wegener năm 1912 còn chưa truyền tới Đông Dương). Số 2, số 3 có bài “Trái đất” của L.H., cắt nghĩa tại sao Trái đất quay chung quanh Mặt trời, tại sao nó hình cầu dẹt, tại sao ngày ngắn dài, với nhiều hình vẽ (vẽ tay). Số 7-10 có các bài “Gió, mưa, đất động và núi lửa”, “Nước lớn và nước ròng” của Lâm Văn Huê, bài cuối này giải thích hiện tượng thủy triều theo thuyết hấp dẫn của Newton. Số 21, kỹ sư Nguyễn Khắc Sự bắt đầu loạt bài “Địa cầu tạo thành sử”, “nói về sự tạo lập của địa cầu rồi lần lần sẽ cắt nghĩa những sự thay đổi từ xưa đến nay”. Từ số 13 đến số 26, rồi 30 đến 35 có loạt bài “Thiệt hành điển học” (Thực hành điện học) của kỹ sư điện Alexis Lan. Tác 78 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016 giả mở đầu chương “Sự đi của điển khí” trong một cái “binh” (pile) bằng khái niệm “Différence de potential”, được cắt nghĩa tương tự như nước chuyển giữa hai bình thông đáy, nói chung những kiến thức cơ bản về điện (đầu thế kỷ XX) được giải nghĩa với một cố gắng đáng nể về sư phạm với nhiều hình minh họa được vẽ tay. Tuy nhiên, hầu hết các khái niệm điện học được giữ nguyên tiếng Pháp (résistance, circuit électrique, corps conducteur, corps isolant). Số 37 bắt đầu loạt bài “Lược luận về bát học” (Petites causeries sur les sciences physiques et naturelles) của Đinh Tấn Yên, và Đá vôi của DVQ. Ông này trước đó đã có bài về xà-bong (savon). Nhân chủng học có loạt bài “Loài người ta” (số 40, 42 ký tên Mai Nham, rồi 53, 55, 57, ký tên Dị Nhơn). Hóa học có bài “Nước” của “Quới, bachelier ès sciences”. Từ số 61 có mục Khoa học tân văn (cây sống đặng bao nhiêu, loài ngựa có biết ăn thịt không, vô tuyến điện, cách chùi kiến(g), lấy vàng dưới biển). Từ số 105 có Khoa học thời đàm, cũng gồm những bài nhỏ chung quanh những tin khoa học. Thanh Tân có loạt bài “Tạo vật sơ diễn” nói về các vì tinh tú, Mặt trời. Loạt bài “Sơ luận cách trí” về các loài trong muôn vật (loài có vú, loài chim muông, loài thảo mộc) Bản thân việc phân loại các sinh vật như vậy chắc cũng là mới đối với người Việt vào những năm 1920. Ngoài ra, tạp chí thường xuyên có các mục văn chương (văn uyển, “morceaux choisis des prosateurs annamites”, “littérature annamite”, giới thiệu “Truyện Túy Kiều”, Nhị độ mai, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm) và rải rác trong các số có những trang về từ ngữ. Và mục thời sự, chiếm khoảng 1 trang báo. Về mặt chính trị, phần lớn tin tức đưa ra không có gì để làm phiền nhà cầm quyền, nhưng tạp chí cũng đã đưa tin cụ Phan Châu Trinh tạ thế một cách trang trọng (bài “Một cái tang chung”, số 128) và hai bài diễn văn trong “Lễ quốc tang cụ Phan Châu Trinh”, một của cụ “Hoàng Thúc Kháng” (đúng ra là Huỳnh Thúc Kháng) và một của Bùi Quang Chiêu. Tạm kết Có thể nói ngay là nhiều bài viết trong Khoa-học Tập-chí không thực sự nhắm vào lớp học sinh con em của những người sẽ mua báo (“các em, hoặc trai hoặc gái”). Những bài về luật buôn bán, về đàn bà có thai, phép cho con nít bú, về ty đề hình, về cách bón “phân azotés” Tuy nhiên, đúng là các tác giả có những cố gắng viết dễ hiểu, có ý thức viết để truyền bá kiến thức khoa học và học sinh trung học nói chung có thể lĩnh hội được, như mục tiêu được đưa ra trong Tiểu dẫn (“Vì các lẽ ấy nên anh em chúng tôi đồng tâm hiệp lực mà lập ra “Khoa học Tập chí” nầy, chỉ mong ra công mọn mà rãi cho khấp hương thôn, xả hội, những bài tiểu học, sơ học, về khoa học ngỏ hầu mở mang cho lớp hậu sanh xứ này rộng nghe xa thấy, gọi là đền cơm áo cho Nước-nhà”). Cũng dễ hiểu là tờ báo thiếu vắng những bài viết (chưa nói tranh luận) về vị trí của khoa học kỹ thuật trong xã hội, về tinh thần khoa học, óc khoa học trong việc quan sát và khám phá tự nhiên... Một phần có thể là chính vì mục tiêu khiêm tốn mà các tác giả đề ra, phần khác có lẽ điều kiện tri thức và mối quan tâm của xã hội thật ra cũng không cho phép đi xa hơn. Nhưng có phải vì thế mà tờ báo không có được tiếng vang xứng đáng: ngoài cuộc sống ngắn ngủi – chỉ ba năm, lượng báo phát hành - chung quanh 1.000 bản mỗi số, rồi xuống còn 650 trong những số cuối, phải nói tới sự quên 79Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016 lãng mà nó gặp phải trong lịch sử các cuộc vận động tri thức của người Việt nửa đầu thế kỷ XX? Nói cho đúng, sự quên lãng này Khoa-học Tập-chí cũng “chia sẻ” với các tạp chí khoa học phổ thông khác trong danh sách nêu trên kia (dù các tờ Khoa học tạp chí của ông Nguyễn Công Tiễu và Khoa học phổ thông của ông Lâm Văn Vãng sống lâu hơn, có lượng độc giả lớn hơn). Phải chăng, số phận của nó và của các tạp chí chị em kia cũng phản ánh những truân chuyên trên con đường tiến vào khoa học của xã hội Việt Nam, những truân chuyên mà chúng ta còn thấy ngày nay, hơn chín chục năm sau? H D T CHÚ THÍCH 1. Theo Chương Thâu, “Từ Khánh Ứng nghĩa thục ở Nhật Bản đến Đông Kinh nghĩa thục ở Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 năm 2007. 2. Trong danh sách này, chúng tôi chép lại các tên nguyên văn như được viết trên các tạp chí. Trong bài, chúng tôi sẽ viết theo chính tả và văn phong ngày hôm nay, bỏ các dấu gạch ngang, trừ những trích đoạn sẽ được giữ nguyên văn. 3. Tạp chí này cũng có trên Thư viện báo chí của Thư viện Quốc gia Việt Nam ( nlv.gov.vn/baochi/cgi-bin/baochi?a=p&p=home&e=-------vi-20--1--img-txIN-%22Khoa+h%E 1%BB%8Dc+T%E1%BA%A1p+ch%C3%AD%22-----), mỗi tháng ra hai kỳ trong năm năm đầu, sau đó mỗi tháng 3 kỳ (từ 01/01/1936 tới 1940). Hơi khó đọc vì bản số hóa có vẻ như là ảnh chụp từ microfilm. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Ký ( pdf) ở Đại học Paris (13/10/1992) dành gần 20 trang (tr. 179-195) để phân tích tạp chí này. 4. Người sáng lập Khoa học báo là Kỹ sư Nguyễn Xiển. Trong Bộ biên tập có nhiều nhân vật có tên tuổi như Nguyễn Xiển, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Thúc Hào, Ngụy Như Kontum, Hoàng Cơ Nghị, Bùi Phượng Chì, Nguyễn Dương Đôn (Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục 1954-57, rồi Đại sứ VNCH tại Roma và Tây Ban Nha) 5. Theo bản Mục lục phân tích các nội dung trên Nam Phong của Nguyễn Khắc Xuyên thì mục Khoa học chỉ có 32 bài kể cả Y khoa, trong 17 năm hoạt động với tất cả 210 số báo. 6. Trong cuốn sách Indochine, la colonisation ambiguë 1858-1954 (Ed. La Découverte, 1995), hai tác giả P. Brocheux và D. Hémery đã kể tên hai tờ Khoa học tạp chí của ông Nguyễn Công Tiễu và Khoa học phổ thông của ông Lâm Văn Vãng là “hai tạp chí, kể từ 1921, được dành riêng cho việc phổ biến những tri thức khoa học và kỹ thuật trong công chúng“ (tr. 231), nhưng lại không nói tới tờ Khoa học Tập chí này. 7. Điều này cũng dễ hiểu, nên nhớ là đến năm 1942 mới có cuốn Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn. 8. Thông tin từ cuốn The Birth of Vietnamese Political Journalism: Saigon, 1916-1930 của Philippe Peycam, Columbia University Press, New York 2012, các trích đoạn đọc trên mạng. 9. Bác sĩ Maurice Cognacq, Giám đốc Văn phòng Toàn quyền Đông Dương Paul Beau từ 1903, được Paul Beau phong làm Giám đốc Trường Y Khoa thuộc Đại học Đông Dương năm 1907 khi trường này được thành lập. Sau khi Đại học Đông Dương đóng cửa vào năm sau - và chỉ mở lại năm 1917, Maurice Cognacq tiếp tục phụ trách giáo dục ở Đông Dương một thời gian nữa. Ông được phong làm Toàn quyền Đông Dương (năm 1922) và ở vị trí này cho tới 1926, khi về hưu (Wikipédia tiếng Pháp). 80 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016 10. Đại học Đông Dương mở cửa năm 1907, năm sau đóng, tới 1917 mới mở lại nhưng cũng không đủ các khoa. Riêng khoa “Khoa học thực hành” thì năm 1923 mới mở (theo Wikipedia tiếng Việt), và năm 1942 mới chỉ nhận 69 sinh viên vào lớp PCB, và cấp 42 chứng chỉ tốt nghiệp khoa học đại học (theo Brocheux et Hémery, sách đã dẫn). TÓM TẮT Căn cứ vào nguồn tư liệu báo chí Việt Nam lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Pháp (Bibliothèque Nationale Française-BNF), tác giả xác định được tờ Khoa-học Tập-chí (Revue de Vulgarisation Scientifique) là tờ báo tiếng Việt phổ biến khoa học đầu tiên ở Việt Nam và đã giới thiệu sơ lược về tờ tạp chí này. Theo đó, Khoa-học Tập-chí xuất bản được 156 số (căn cứ theo số báo cuối cùng nộp lưu chiểu tại BNF) trong 3 năm, từ 1923 đến 1926. Báo do bác sĩ Trần Văn Đôn làm chủ nhiệm (Directeur-Gérant) và một Ban biên tập gồm những trí thức nổi tiếng của Nam Kỳ đầu thế kỷ XX như Bùi Quang Chiêu, Lưu Văn Lang, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Hinh, Trần Quang Nghiêm Dù vậy, Khoa-học Tập-chí cũng chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn rồi chìm vào quên lãng. Phải chăng, số phận của nó và của các tạp chí khoa học phổ thông khác ra đời theo chủ trương “khai dân trí” của tầng lớp sĩ phu vào đầu thế kỷ XX đã phản ánh những truân chuyên trên con đường tiến vào khoa học của xã hội Việt Nam, những truân chuyên mà chúng ta còn thấy ngày nay, gần một thế kỷ sau? ABSTRACT In search of the first magazine disseminating science in Vietnam: “KHOA HỌC TẬP CHÍ” Based on Vietnamese journal sources archived at the French National Library (Bibliothèque Nationale Française), the author found that the “Khoa học Tập chí” magazine (Revue de Vulgarisation Scientifique) was the first magazine disseminating science in Vietnam and he briefly introduced it. According to him, 156 editions of the magazine were issued (based on the last registration of copyright at the French National Library) during 3 years, from 1923 to 1926. Dr. Trần Văn Đôn was the director (Directeur-Gerant) of the magazine, and the editorial board composed of such renowned intellectuals in Southern Vietnam in the early twentieth century as Bùi Quang Chiêu, Lưu Văn Lang, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Hinh and Trần Quang Nghiêm, etc... Although the editorial board had made great efforts in disseminating scientific knowledge, the magazine only existed in a short time and then sank into oblivion. Is it true that the destiny of “Khoa học Tập chí” magazine and other popular scientific journals advocating “the broadening of the people’s minds” of the intellectuals in the early 20th century reflected the difficulties of Vietnamese society on the road approaching science which still exists until now.
File đính kèm:
- di_tim_tap_chi_pho_bien_khoa_hoc_dau_tien_o_viet_nam_khoa_ho.pdf