Giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thái ở Tây Bắc phục vụ cho mục đích phát triển du lịch cộng đồng

Tóm tắt Giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thái ở Tây Bắc phục vụ cho mục đích phát triển du lịch cộng đồng: ... khách đến với vùng Tây Bắc, vào các bản làng, lên các ngôi nhà sàn Thái đều rất thích “Bảo tàng dân tộc học” tự nhiên, sống động của đồng bào. 3.2. Y phục, trang sức Trang phục nữ Thái chia làm 2 loại phân biệt khá rõ theo hai ngành Thái Tây Bắc là Thái Trắng (Táy khao) và Thái Đe... sừng trâu để làm vật đo lường khi uống rượu, hàm ý tôn thờ con vật quý trong nhà. 3.4. Văn nghệ Người Thái có đời sống văn hóa tinh thần phong phú, đa dạng. Về dân ca, có làn điệu khắp phổ biến ở hầu hết các địa phương. Khắp là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và m...ác Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Thị Nhuần và tgk _____________________________________________________________________________________________________________ 197 loại hình du lịch cộng đồng tại một số bản dân tộc, trong đó có bản Áng. Với cảnh đẹp thiên nhiên mang đậm sắc màu Tây ...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 444 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thái ở Tây Bắc phục vụ cho mục đích phát triển du lịch cộng đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lượn nách, được trang 
trí bằng vải “khít” ở giữa thân có tua vải 
phủ từ vai xuống ngực, nách áo trang trí 
theo lối đáp hai mảng hoa văn trong bố 
cục hình tam giác. 
+ Thái Đen: Thường nhật, phụ nữ 
Thái Đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối 
(chàm hoặc đen), cổ áo khác với của 
người Thái Trắng là loại cổ tròn, đứng. 
Đầu đội khăn gọi là “piêu”, thêu nhiều 
hoa văn, mô-típ trang trí mang phong 
cách từng mường. Lối để tóc khi có 
chồng (búi lên đỉnh đầu) gọi là “tằng 
cẩu”, khi chồng chết có thể búi tóc thấp 
xuống sau gáy, chưa chồng thì không búi 
tóc. Trong các dịp lễ tết, áo dài của dân 
tộc Thái Đen rất đa dạng với các loại xẻ 
nách, chui đầu, trang trí hoa văn, màu sắc 
phong phú. Trang sức của phụ nữ gồm: 
vòng cổ, vòng tay, khuyên tai bằng bạc 
hay nhôm. 
Khác với phụ nữ dân tộc Thái 
Trắng, phụ nữ dân tộc Thái Đen mang 
một nét riêng thật hấp dẫn, độc đáo với 
chiếc khăn Piêu dùng để đội trên đầu. 
Piêu có nhiều loại khác nhau, có loại 
được thêu hoa văn bằng chỉ màu sặc sỡ, 
có loại chỉ là một tấm vải bông nhuộm 
chàm. Tùy từng vùng, từng địa phương 
mà Piêu có những sắc thái riêng. Piêu có 
tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm 
đầu khi mùa đông giá lạnh... Piêu còn là 
vật trang sức quan trọng của các cô gái 
trong sinh hoạt hằng ngày, nhất là trong 
lúc đi chơi hay dự lễ hội... Việc học dệt 
vải và học thêu khăn Piêu là bài học phổ 
thông, tất yếu của mọi thành viên nữ 
trong đời sống của cộng đồng dân tộc 
Thái, bởi vậy Piêu còn là một tiêu chuẩn 
Tư liệu tham khảo Số 60 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
194 
xã hội để đánh giá phụ nữ. Qua chiếc 
Piêu có thể biết được chủ nhân của nó là 
người tài hoa, siêng năng, chịu khó hay là 
người lười nhác, vụng về. Khăn Piêu của 
phụ nữ Thái không chỉ mang giá trị thẩm 
mĩ mà còn mang tính xã hội, góp phần 
tạo nên một nét đẹp, một sắc thái riêng, 
hấp dẫn du khách về trang phục truyền 
thống của dân tộc Thái. 
3.3. Ẩm thực 
Với người Thái ở Tây Bắc, có lẽ 
không có dạng thức văn hóa nào phong 
phú như ẩm thực. Người Thái là một tộc 
người rất giỏi trong chế biến thức ăn. 
Văn hóa ẩm thực của người Thái vùng 
Tây Bắc không quá cầu kì, kiểu cách 
nhưng mang đậm bản sắc tộc người, các 
món ăn luôn để lại ấn tượng khó quên 
cho du khách. 
Trước kia, lương thực chính của 
người Thái là gạo nếp. Gạo nếp được đồ 
thành xôi và người Thái chỉ ăn xôi nếp đồ 
cách thủy. Khẩu cẳm hay còn gọi là xôi 
nếp ngũ sắc, là loại xôi được nhuộm màu 
bằng lá cây với nhiều màu khác nhau như 
đỏ, trắng, vàng, tím Ngoài khẩu cẳm, 
còn có cơm lam (khẩu lam). Cơm lam là 
loại cơm được làm từ gạo (thường là gạo 
nếp) cùng một số nguyên liệu khác, cho 
vào ống tre, giang, nứa và nướng chín 
trên lửa. Khi cơm chín, chẻ bỏ lớp cháy 
đen bên ngoài ống cơm thật khéo léo cho 
đến khi bao bọc phần ruột cơm chỉ là một 
lớp lạt giang mỏng. Xắt mỗi ống ra thành 
năm hay bảy khúc. Khi ăn chỉ cần bóc bỏ 
lớp lạt giang bên ngoài. Cơm lam được 
dọn ra ăn cùng với thịt gà hay thịt lợn 
rừng nướng (những thứ thịt này cũng 
được nướng trong ống tre). Tuy nhiên, 
cơm lam ngon nhất khi ăn với muối 
vừng. 
Đối với dân tộc Thái, thói quen ăn 
cơm tẻ chỉ phổ biến từ khoảng sau năm 
1960 trở lại đây. Các món ăn của người 
Thái chủ yếu là: cá nướng, cá đồ, cá vùi 
tro, cá chua, cá moọc (trộn tấm, gói lá 
dong rồi đồ chín), cá lạp, gỏi, thịt nướng, 
thịt vùi tro, thịt chua, thịt gác bếp hoặc 
làm gỏi, lạp sườn...; món mắm chế bằng 
ruột non động vật, có vị đắng, được pha 
thêm các loại gia vị nặm pịa rất hợp khẩu 
vị của họ; các loại rau, măng thường đồ 
hay luộc, làm nộm ít khi xào mỡ; các 
loại tôm, tép, cá nhỏ thì nấu canh, làm 
chẻo để chấm xôi nếp. Đặc biệt có món 
“Pa pỉnh tộp” (cá úp nướng) là một món 
ăn mang đậm bản sắc dân tộc của người 
Thái. Để làm được món “'Pa pỉnh tộp”, 
người ta chọn loại cá chép khoảng 0,5kg 
trở lên, béo và còn tươi sống. Trước khi 
mổ phải cạo vảy để gia vị ướp ngấm đều 
vào cá, không mổ cá đằng bụng mà phải 
mổ đằng dọc sống lưng để khi gấp úp, 
con cá mềm mại dễ gấp hơn và để phần 
gia vị nhồi trong bụng cá khi tiếp xúc với 
than hồng sẽ tỏa mùi thơm ngấm vào thịt 
cá. 
Trong các dịp lễ tết, cưới xin, vào 
nhà mới, người Thái thường uống rượu 
cần. Rượu cần là một thứ rượu trắng cất 
từ sắn hoặc gạo, được uống trực tiếp qua 
cần trúc. Rượu cần người Thái làm khá 
cầu kì, gọi là “láu xá”. Men rượu làm 
toàn bằng những thứ lá, quả sẵn có trong 
rừng (gọi là men lá) như: “bơ hinh ho”, 
“khi mắc cái”, củ riềng, lá trầu không, 
quả ớt... Những thứ này được giã cho thật 
nhuyễn với gạo tấm, sau đó nắm thành 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Thị Nhuần và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
195 
từng miếng tròn dẹt như bánh rán, đem ủ 
với rơm, xếp từng lớp đều nhau. Với 
quan niệm con trâu là đầu cơ nghiệp, 
người Thái dùng sừng trâu để làm vật đo 
lường khi uống rượu, hàm ý tôn thờ con 
vật quý trong nhà. 
3.4. Văn nghệ 
Người Thái có đời sống văn hóa 
tinh thần phong phú, đa dạng. Về dân ca, 
có làn điệu khắp phổ biến ở hầu hết các 
địa phương. Khắp là lối ngâm thơ hoặc 
hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. 
Làn điệu khắp nổi tiếng là khắp “Tiễn 
dặn người yêu” (sống chụ son sao), tản 
chụ siết sương; hát đối đáp trai gái (khắp 
báo sao); hát lên nhà mới (khắp khửn 
hươm mớ); hát mừng đám cưới (khắp 
hặp đoong); hát mừng mùa vụ (khắp 
chôm). Việc khắp đối thể hiện khả năng, 
hiểu biết, độ nhạy bén và linh hoạt của 
người trong cuộc. [2] 
Về dân vũ của người Thái thì nổi 
tiếng nhất là múa xòe. Nói tới xòe Thái là 
phải nói tới các điệu xòe cổ: 
+ Điệu “khắm khen” – quanh đống 
lửa, mọi người nắm tay nhau nhảy múa. 
Đây là điệu múa mang tính sơ khai, biểu 
lộ sự gắn kết cộng đồng, mong ước một 
cuộc sống ấm no, hạnh phúc vẹn tròn. 
+ Điệu “khắm khăn mơi lẩu” – 
nâng khăn mời rượu. Đây là điệu múa 
đầy chất trữ tình và ấm áp tình người, thể 
hiện lòng hiếu khách. 
+ Điệu “phá xí” – bổ bốn, diễn tả 
tình đoàn kết của cộng đồng, hướng về tổ 
tiên, quê hương của mỗi thành viên. 
+ Điệu “đổi hôn” – múa tiến lùi, 
như muốn khẳng định dù đất trời có đổi 
thay, cuộc sống có như thế nào thì tình 
người vẫn luôn sắt son bền chặt. 
+ Điệu “nhôm khăn” – tung khăn, 
là điệu xòe tưng bừng nhất, hay dùng khi 
mùa vụ bội thu, đám cưới, lên nhà mới... 
Dần dần, từ các điệu xòe cổ, các 
nghệ nhân dân gian xây dựng được tới 32 
điệu xòe mang bóng dáng sinh hoạt 
thường ngày: “xe cúp” – múa nón, “xe 
tẳng chai” – múa chai, “xe kếp phắc” – 
hái rau, “xe cáp” – múa sạp... Các điệu 
xòe nhịp nhàng, sôi động trong tiếng 
trống, chiêng, khèn, pí, tính tẩu, đôi khi 
có cả các lời hát phụ họa cho thêm phần 
sinh động. Các điệu xòe vòng sôi nổi bao 
nhiêu thì các bài xòe điệu lại tinh tế, 
duyên dáng bấy nhiêu. Triết lí âm – 
dương, đất – trời, lửa – nước và ý nghĩa 
nhân sinh cao cả luôn ẩn chứa trong các 
điệu xòe. Người Thái có câu ca: “Không 
xòe không tốt lúa/ Không xòe thóc cạn 
bồ”. Theo truyền thống của dân tộc Thái 
vào những ngày lễ, tết, ngày vui của dòng 
họ, gia đình, nhất là nhà đón khách quý 
vòng xòe thường được tổ chức như một 
nghi lễ dân gian để đón mừng, bên ánh 
lửa bập bùng, tay trong tay tình cảm, thể 
hiện nét đẹp truyền thống nhân văn sâu 
sắc. Vòng xòe có thể có số lượng lớn 
người tham gia, có những vòng đại xòe 
với số lượng đông tới hàng trăm người và 
vô cùng sôi động. 
Về nhạc có các loại sáo (pí), nhị (xi 
xo), đàn môi (hưn mư), đặc biệt là khèn 
bè (khen pe). Ngoài ra, còn có nhac khua 
loỏng (quánh loòng), dùng những chiếc 
chày giã gạo xếp thành đôi diễn tấu thành 
giai điệu khác nhau. 
Hạn khuống là một trong những nét 
đặc trưng văn hóa nổi tiếng của người 
Tư liệu tham khảo Số 60 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
196 
Thái Tây Bắc. Đây là sinh hoạt văn hóa 
dân gian độc đáo, với hình thức diễn 
xướng mang tính sân khấu sơ khai mang 
tính cộng đồng. Người ta dựng cái sàn ở 
nơi đất trống của bản, hài hòa giữa thiên 
nhiên và cộng đồng. Hạn khuống thường 
được tổ chức vào tiết thu đông, công việc 
đồng áng đã nhàn rỗi. 
4. Một số bản du lịch cộng đồng ở 
Tây Bắc 
4.1. Bản Lác (Hòa Bình) 
Bản Lác, thuộc huyện Mai Châu, 
thành phố Hòa Bình, là nơi sinh sống của 
người dân tộc Thái với 5 dòng họ Hà, Lò, 
Vì, Mác, Lộc. Theo Trưởng bản Hà Công 
Tím, bản Lác đã có tuổi đời trên 700 
năm. Năm 1993, UBND huyện Mai Châu 
chính thức đề nghị tỉnh Hòa Bình cho 
phép khách du lịch nghỉ qua đêm trong 
bản. Cũng từ đó, cái tên bản Lác đã được 
nhiều người biết như một “điểm sáng” 
trên bản đồ du lịch Việt Nam. [9] 
Hiện toàn bản có 25 “khách sạn” là 
nhà sàn được xây cất theo quy hoạch, 
mỗi “khách sạn” đều được đánh số theo 
thứ tự từ 1 đến 25, “khách sạn” số 1, nơi 
được dân du lịch “phong tặng” danh hiệu 
“khách sạn 4 sao”. Đối với các hộ gia 
đình trong bản, du lịch là một trong 
những nguồn thu chính. 
Nhà sàn ở bản Lác được dát bằng 
tre, rộng, cao ráo, sạch sẽ và giữ được 
truyền thống kiến trúc cổ, bên trong có 
đầy đủ chăn, đệm, gối được gấp ngăn 
nắp, gọn gàng. Sát cạnh sàn ngủ - nghỉ là 
sàn ngồi để ăn cơm và uống trà. Ghé 
thăm bản Lác, du khách không thể bỏ qua 
những món ăn đặc sản như gà bản, xiên 
thịt rừng nướng, nếp Mai Châu, bát canh 
rau rừng cùng chai rượu Mai Hạ... 
Buổi tối du khách được đắm mình 
trong men rượu cần và thưởng thức 
những tiết mục ca nhạc đặc sắc của dân 
tộc Thái ngay trên nhà sàn hoặc ngoài sân 
của bản do thanh niên nam, nữ trong bản 
biểu diễn. 
4.2. Bản Áng (Sơn La) 
Nằm trên cao nguyên Mộc Châu 
(huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La), bản Áng 
không chỉ có khí hậu trong lành, mát mẻ; 
cảnh sắc thơ mộng, hữu tình mà còn lưu 
giữ kho tàng văn hóa đặc sắc của dân tộc 
Thái. 
Từ thị trấn nông trường Mộc Châu, 
du khách đi theo quốc lộ 43 khoảng 2km 
về phía Nam sẽ đến bản Áng. Nhìn từ 
trên cao, bản Áng đẹp như một bức tranh 
thủy mặc với những nếp nhà sàn truyền 
thống nằm thấp thoáng, ẩn hiện dưới bạt 
ngàn tán lá xanh tươi. Cạnh bản là hồ 
nước tự nhiên có diện tích 5ha được bao 
quanh bởi rừng thông xanh trồng trên 
những đồi đất feralít nâu đỏ. Khung cảnh 
cao nguyên Mộc Châu, với những đồi 
chè, đồng cỏ xanh mướt, hoa ban, hoa 
mơ, hoa mận nở trắng rừng đã tô điểm 
cho vẻ đẹp bản Áng thêm lung linh, thơ 
mộng. Tuy nằm giáp thị trấn nông trường 
Mộc Châu nhưng cư dân bản Áng vẫn 
bảo tồn nguyên vẹn bản sắc văn hóa dân 
tộc đặc thù như kiến trúc nhà sàn truyền 
thống, trang phục, những làn điệu dân ca 
cổ, những lễ hội đặc trưng (lễ hội “Hết 
Chá”, lễ mừng cơm mới) [8] 
Những năm qua, nhằm phát triển du 
lịch bền vững gắn với bảo tồn và phát 
huy nét đẹp thiên nhiên, văn hóa ở Mộc 
Châu, tỉnh Sơn La đã đầu tư, khai thác 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Thị Nhuần và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
197 
loại hình du lịch cộng đồng tại một số 
bản dân tộc, trong đó có bản Áng. Với 
cảnh đẹp thiên nhiên mang đậm sắc màu 
Tây Bắc cùng nét văn hóa độc đáo của 
dân tộc Thái, bản Áng đã trở thành điểm 
đến hấp dẫn đông khách du lịch trong 
nước và quốc tế, góp phần không nhỏ vào 
việc nâng cao đời sống cho dân bản, đồng 
thời bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa 
truyền thống, trong đó phải kể đến nghề 
dệt, thêu thổ cẩm. Hiện nay, các sản 
phẩm thổ cẩm (khăn piêu, áo cóm, túi 
xách, khăn trải bàn...) do dân bản làm ra 
với mẫu mã đa dạng, hoa văn tinh tế đang 
từng bước tạo được thương hiệu riêng. 
4.3. Bản Him Lam 2 (Điện Biên) 
Bản du lịch cộng đồng Him Lam 2 
thuộc phường Him Lam, thành phố Điện 
Biên Phủ, là bản có truyền thống dân tộc 
Thái từ lâu đời với những phong tục tập 
quán rất riêng mang đậm sắc màu Tây 
Bắc. 
Bản Him Lam 2 nằm ở cửa ngõ của 
thành phố, dân cư chiếm phần đa (98%) 
là dân tộc Thái (chủ yếu là người Thái 
đen), do đó bản mang dấu ấn của dân tộc 
Thái một cách sâu sắc. Với vị trí khá đặc 
biệt, nằm trong khu di tích chiến thắng 
Điện Biên Phủ và ngày đêm soi bóng 
xuống dòng Nậm Rốm xinh đẹp, năm 
2004, bản Him Lam 2 đã là 1 trong 8 bản 
được tỉnh Điện Biên lựa chọn để thí điểm 
đầu tư xây dựng thành bản văn hóa, du 
lịch. Đến nay, bản Him Lam 2 đã trở 
thành điểm du lịch cộng đồng đạt tiêu 
chuẩn với đầy đủ hệ thống cơ sở hạ tầng 
và phương tiện thiết yếu nhưng vẫn 
không làm mất đi nét đẹp văn hóa truyền 
thống của dân tộc Thái đen. [10] 
Trong những năm gần đây, nhằm 
góp phần bảo tồn nền văn hóa truyền 
thống, đặc biệt là bảo tồn dân ca, dân vũ 
đồng thời phát huy giá trị của văn hóa 
trong phát triển du lịch cộng đồng, bản đã 
thành lập các đội văn nghệ cũng như tiến 
hành tổ chức cho các nghệ nhân biểu 
diễn, truyền dạy các loại hình nghệ thuật 
dân gian. Các đội văn nghệ, các nghệ 
nhân luôn sẵn sàng phục vụ, giao lưu văn 
hóa với du khách ngay tại bản với nhiều 
hình thức biểu diễn phong phú như thổi 
Pí pặp, hát dân ca Thái, múa xòe... 
Bên cạnh đó, bản du lịch cộng đồng 
Him Lam 2 vẫn còn lưu giữ và tổ chức 
thường xuyên các lễ hội dân tộc truyền 
thống của mình như hội Hạn khuống, lễ 
mừng cơm mới, ngày hội đoàn kết toàn 
dân và các ngày lễ, tết âm lịch hàng năm. 
Các ngày lễ, hội thường được tổ chức tại 
nhà văn hóa của bản và diễn ra rất sôi 
nổi, được nhân dân trong bản hưởng ứng, 
tham gia nhiệt tình. 
Đến với bản Him Lam 2, du khách 
không những được giao lưu văn nghệ, 
nghe hát dân ca Thái, chơi những trò chơi 
dân gian và dạo quanh bản ngắm nhìn 
những nếp nhà sàn duyên dáng hòa cùng 
với dòng sông Nậm Rốm mà du khách 
còn được thưởng thức các món ăn dân 
tộc do chính bàn tay của những đầu bếp 
là những người con sinh ra và lớn lên tại 
bản chế biến phục vụ du khách. Tất cả 
những nét đẹp đó đã tạo nên một bức 
tranh đẹp, đậm đà sắc thái dân tộc vùng 
cao của một bản du lịch cộng đồng và để 
lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách. 
4.4. Bản Vàng Pheo (Lai Châu) 
Hiện nay trên địa bàn Lai Châu có 4 
Tư liệu tham khảo Số 60 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
198 
điểm du lịch cộng đồng được tỉnh công 
nhận đó là bản Nà Luồng, bản Hon 
(huyện Tam Đường), bản Gia Khâu I (thị 
xã Lai Châu) và bản Vàng Pheo (huyện 
Phong Thổ). Đây được xem là những 
“hạt nhân” quan trọng để phát triển du 
lịch cộng đồng ở Lai Châu, đem lại lợi 
ích kinh tế cho người dân bản địa, làm 
phong phú thêm sản phẩm du lịch Tây 
Bắc. 
Nằm cách trung tâm thị xã Lai 
Châu khoảng 30km, bản Vàng Pheo được 
nhắc đến như “thung lũng mĩ nhân”, một 
trong những bản cổ xưa nhất của người 
Thái trắng ở Lai Châu (90 hộ với hơn 400 
nhân khẩu). Mang trong mình những nét 
văn hóa đặc trưng, với cảnh sắc thiên 
nhiên tươi đẹp và thơ mộng, bản Vàng 
Pheo hội tụ nhiều điều kiện để phát triển 
du lịch cộng đồng. [9] 
Theo quan niệm của người Thái 
trắng ở Tây Bắc, nhà sàn phải được dựng 
theo tiêu chí “sơn chầu thủy tụ” (lưng tựa 
vào đồi, núi; mặt hướng ra sông, suối 
hoặc cánh đồng). Nhà được làm bằng gỗ 
tốt, tre hoặc hóp với bốn mái thẳng gấp 
góc được lợp bằng cỏ gianh, bao gồm hai 
tầng. Tầng trên dành cho các sinh hoạt 
của gia đình chủ nhà và để tiếp khách, 
tầng dưới là nơi để các nông cụ sản xuất, 
gỗ, củi... Hiện nay, dân bản đã xây thêm 
một ngôi nhà sàn văn hóa phục vụ các 
sinh hoạt cộng đồng. Đây là ngôi nhà có 
kiến trúc giống nhà sàn truyền thống 
nhưng mái nhà lợp ngói, gỗ làm nhà có 
màu sáng hơn. 
Cho đến nay, người Thái trắng ở 
đây còn gìn giữ nguyên vẹn nhiều lễ hội 
văn hóa đặc trưng, hình thành nên tập 
quán riêng trong đời sống sinh hoạt cũng 
như lao động sản xuất hàng ngày của họ. 
Mỗi lễ hội là một bức tranh miêu tả đời 
sống xã hội của đồng bào Thái trắng xứ 
Mường So, tiêu biểu như: lễ hội Nàng 
Han (15/2 âm lịch), lễ hội Then Kin Pang 
(10/3 âm lịch), lễ hội Kin Lẩu Khẩu Mẩu 
(15/9 âm lịch) Trong các lễ hội, ngoài 
các nghi lễ truyền thống, còn có nhiều 
hoạt động văn hóa, văn nghệ, trò chơi 
dân gian mang đậm bản sắc văn hóa của 
người Thái trắng được tổ chức như: múa 
quạt; múa xòe; trò chơi tó má lẹ, ném 
còn, đẩy gậy, tù lu, đánh yến, bắt cá 
suối 
Với những tiềm năng sẵn có, Vàng 
Pheo hiện đang là một điểm thu hút 
khách du lịch. Du khách đến Vàng Pheo 
thường tập trung vào hai ngày cuối tuần 
và đông hơn là vào mùa lễ hội, sau tết 
Nguyên Đán. Đến Vàng Pheo du khách 
có thể tham quan, nghỉ đêm tại nhà sàn 
của người Thái trắng, cùng làm những 
công việc hàng ngày của người dân địa 
phương hay tham gia các sinh hoạt văn 
hóa cộng đồng. 
Trong Quy hoạch phát triển Du lịch 
Lai Châu đến 2015 tầm nhìn 2020, Vàng 
Pheo trở thành một điểm đến du lịch 
cộng đồng trọng điểm của Lai Châu và 
Vùng Tây Bắc. Phát triển du lịch chắc 
chắn sẽ đem lại lợi ích chung về văn hóa 
xã hội và môi trường cho toàn dân bản. 
5. Kết luận 
Văn hóa là bản sắc riêng của mỗi 
cộng đồng dân cư. Hoạt động du lịch, đặc 
biệt là hình thức du lịch cộng đồng có vai 
trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát 
huy những giá trị văn hóa truyền thống 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Đặng Thị Nhuần và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
199 
của địa phương. Nhờ du lịch, người dân 
nhận thấy những giá trị văn hóa cốt lõi 
mang bản sắc quê hương không chỉ là 
niềm tự hào mà còn mang lại nguồn thu 
nhập khá lớn cho gia đình và địa phương 
nơi mình sinh sống. Do vậy, người dân sẽ 
ý thức sâu sắc hơn trong việc bảo tồn và 
phát huy những giá trị văn hóa truyền 
thống bản địa như: nếp sống, sinh hoạt 
văn nghệ, ẩm thực, trang phục truyền 
thống Bên cạnh đó, các mối quan hệ 
giữa những người dân địa phương với 
nhau và với khách du lịch không những 
được duy trì ổn định mà còn trở nên thân 
thiện hơn, gắn bó chặt chẽ với nhau hơn 
để xây dựng môi trường sống lành mạnh, 
xanh, sạch. 
Với bức tranh tộc người đa dạng, 
Tây Bắc có thế mạnh trong việc khai thác 
các giá trị văn hóa dân tộc để phục vụ 
mục đích phát triển du lịch cộng đồng, 
trong đó, bản sắc văn hóa tộc người Thái 
giữ vai trò quan trọng. Để đẩy mạnh phát 
triển du lịch ở các làng bản người dân tộc 
Thái ở Tây Bắc đạt hiệu quả cao và bền 
vững, đồng thời giữ gìn và phát huy được 
các giá trị văn hóa truyền thống của dân 
tộc, cần phải thực hiện đồng bộ các giải 
pháp như: nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực du lịch, gia tăng chất lượng dịch 
vụ du lịch, quảng bá hình ảnh du lịch, 
xúc tiến du lịch văn hóa cộng đồng tạo 
điều kiện cho du khách khám phá bản sắc 
văn hóa phong phú, độc đáo, đặc sắc của 
vùng Tây Bắc nói chung và của các làng 
bản dân tộc Thái nói riêng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam, mấy vấn đề lí 
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
2. Phùng Quỳnh (2012), “Một số ý kiến về kinh tế, văn hóa, xã hội ruyền thống và hiện 
đại của cộng đồng dân tộc Thái Vùng Tây Bắc”, Kỉ yếu Hội thảo Cộng đồng các tộc 
người ngữ hệ Thái – Kadai ở Việt Nam: Truyền thống, hội nhập và phát triển (Hội 
nghị Thái học toàn quốc lần thứ VI), Nxb Thế giới. 
3. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục. 
4. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa 
học xã hội. 
5. Lê Thông (chủ biên) (2009), Địa lí các vùng kinh tế Việt Nam, Nxb Giáo dục. 
6. Tổng cục thống kê (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 - Các 
kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê. 
7.  
8.  
9.  
10.  
11.  
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 22-01-2014; ngày phản biện đánh giá: 17-02-2014; 
ngày chấp nhận đăng: 18-7-2014) 

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_van_hoa_truyen_thong_cua_dan_toc_thai_o_tay_bac_phuc.pdf