Giáo trình Pháp luật đại cương - Phạm Anh Tuấn
Tóm tắt Giáo trình Pháp luật đại cương - Phạm Anh Tuấn: ...iều chỉnh các quan hệ xã hội. 1.2 Những đặc điểm cơ bản của quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị (lực lượng cầm quyền). Quy phạm pháp luật là quy tắc của hành vi có tính bắt buộc chung phổ biến đối với tất cả mọi người tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉ... trong một vùng nhất định. Đối tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm cá nhân, tổ chức và những quan hệ xã hội mà văn bản đó điều chỉnh. Hiệu lực theo không gian và đối tượng của văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc vào thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản đó. Theo quy định hiện h...Có hai cấp xét xử sơ thẩm đó là toà án nhân dân cấp quận (huyện) và toà án nhân dân cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương). Toà án nhân dân cấp quận (huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước từ cấp huyện t...
hững người tham gia tố tụng khác. Ngành luật dùng để tác động, điều chỉnh các mối quan hệ trên trong quá trình giải quyết vụ án dân sự gọi là luật tố tụng dân sự. Luật tố tụng dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng phát sinh giữa toà án với những người tham gia tố tụng trong quá trình toà án giải quyết các vụ án dân sự để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tập thể và mọi công dân. 2. Nguyên tắc của tố tụng dân sự Việc giải quyết một vụ án dân sự tại toà án cũng như tại cơ quan thi hành án phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau: Toà án xét xử công khai, trừ trường hợp cần thiết xét xử kín để giữa gìn bí mật Nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc theo yêu cầu chính đáng của đương sự. Toà án xét xử tập thể và theo quyết định đa số. Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật. Sự tham gia tố tụng của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội. Quyền yêu cầu bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp và pháp nhân. Quyền bình đẳng của các công dân, tổ chức. Quyền bảo vệ đương sự. Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của các đương sự và nhiệm vụ của toà án trong việc xác minh và thu thập chứng cứ. Toà án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng, quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước toà án. Xét xử có Viện kiểm sát nhân dân tham gia. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành bản án, quyết định đó. 3. Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự Để xét xử một vụ án dân sự phải trải qua những trình tự, thủ tục nhất định, cụ thể bao gồm các giai đoạn sau: Khởi kiện và khởi tố vụ án dân sự Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của công dân, pháp nhân và các tổ chức xã hội yêu cầu toà án nhân dân bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của mình, của tập thể, của Nhà nước hay của người khác đang bị chanh chấp hoặc vi phạm. Quyền khởi tố vụ án dân sự là quyền của Viện kiểm sát nhân dân. Các công dân, pháp nhân khởi kiện vụ án dân sự bằng một đơn viết nộp tại toà án nhân dân. Còn viện kiểm sát khởi tố hoặc tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung bằng văn bản gửi cho toà án. Sau khi nhận được đơn khởi kiện, nếu đơn khởi kiện đảm bảo những điều kiện khởi kiện thì toà án sẽ thụ lý vụ án. Toà thụ lý vụ án kể từ ngày nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Thụ lý vụ án dân sự là việc thẩm phán chấp nhận đơn của người khởi kiện hoặc văn bản khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân vào sổ thụ lý của toà án. Điều tra vụ án dân sự Điều tra vụ án dân sự là tổng hợp những hành vi tố tụng dân sự mà toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cần tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thu thập, nghiên cứu và bước đầu đánh giá chứng cứ để giúp toà án có những quyết định đúng đắn về vụ án trong giai đoạn xét xử và trong thời gian bốn tháng nghiên cứu và thu thập chứng cứ kết thúc điều tra toà án phải ra được một trong các quyết định sau: Công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự. Đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự. Hoà giải vụ án dân sự Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, hoà giải không chỉ là một nguyên tắc mà còn là một thủ tục bắt buộc mà toà án và người tham gia tố tụng buộc phải thực hiện. Do vậy trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, toà án phải tiến hành hoà giải để các đương sự tự thoả thuận, tự điều chỉnh và thoả thuận với nhau về giải quyết vụ án. Trong quá trình hoà giải nếu thành thì toà án quyết định công nhận hoà giải thành còn nếu không thành thì quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thủ tục sơ thẩm dân sự Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì toà án phải mở phiên toà sơ thẩm, thủ tục này bao gồm: Chuẩn bị cho xét xử: nghiên cứu các vấn đề thuộc về nội dung, thủ tục tố tụng trong vụ án cần phải giải quyết, ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Xét xử tại phiên toà: phiên toà được tiến hành với dự có mặt của những người tham gia tố tụng. Thủ tục xét xử tại phiên toà bao gồm thủ tục bắt đầu phiên toà (chuẩn bị cho xét xử ), xét hỏi tại phiên toà, tranh luận tại phiên toà, nghị án, tuyên án. Những thủ tục cần tiến hành sau phiên toà: biên bản phiên toà, cấp trích lục, bản sao bản án hoặc quyết định của toà án. Thủ tục phúc thẩm dân sự Phúc thẩm dân sự là việc toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật khi có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Toà án cấp phúc thẩm có quyền y án, sửa đổi bản án sơ thẩm, huỷ bỏ bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án. Thủ tục xét lại bản án và quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật (thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm). Thủ tục giám đốc thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố tụng dân sự, trong đó toà án cấp trên xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới nếu phát hiện thấy sai lầm, trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền. Thủ tục tái thẩm là toà án cấp trên xét xử lại bản án, quyết định của toà án cấp dưới nếu phát hiện thấy những tình tiết mới quan trọng làm thay đổi nội dung vụ án trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền. Thi hành án dân sự Thi hành án dân sự là giai đoạn độc lập, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, trong đó các bản án, quyết định của toà án được đưa ra thi hành, do cơ quan thi hành án thực hiện. CHƯƠNG VII LUẬT HÌNH SỰ I. KHÁI NIỆM Các ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng như các biện pháp xử lý đối với các chủ thể thực hiện hành vi đó, nhưng chỉ có luật hình sự mới quy định hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm và quy định hình phạt cho từng loại tội phạm. Do vậy, luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy. II. TỘI PHẠM 1. Khái niệm, dấu hiệu của tội phạm Theo quy định tại khoản 1 điều 8 của Bộ luật hình hình sự của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm các lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Khái niệm này không những là cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định những loại tội phạm cụ thể trong các tội phạm của Bộ luật hình sự mà còn là cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng đúng đắn những điều luật quy định về từng tội phạm cụ thể. Từ khái niệm tội phạm nêu trên cho thấy tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật có những dấu hiện cơ bản sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội (tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm). Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất của tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là căn cứ quan trọng để phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác mà còn là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng của tội phạm và giúp cho việc cụ thể hoá trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội một cách chính xác. Tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự (tính trái pháp luật hình sự của tội phạm). Dấu hiệu này được quy định tại Điều 2 của Bộ luật hình sự nước Việt Nam, tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu biểu hiện hình thức pháp lý của hành vi, nó đòi hỏi phải có ở hành vi bị coi là tội phạm. Trong thực tế, nếu có hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng chưa được quy định trong Bộ luật hình sự thì hành vi đó chưa được coi là tội phạm và cần xem xét để giải quyết tuỳ từng mức độ khác nhau. S Tội phạm là hành vi được thực hiện một cách có lỗi (tính chất lỗi của tội phạm). Lỗi là thái độ chủ quan của người phạm tội đối với hành vi mà mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó, thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Người bị coi là có lỗi khi ở trong điều kiện hoàn cảnh có thể lựa chọn cách xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật nhưng người đó lại lựa chọn cách xử sự mà pháp luật hình sự cấm. Theo luật hình sự Việt Nam, người thực hiện hành vi nguy hiểm phải có lỗi thì hành vi đó mới bị coi là tội phạm. Lỗi trong hình sự được chia thành lỗi cố ý phạm tội và lỗi vô ý phạm tội. Lỗi cố ý bao gồm: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Cố ý trực tiếp là trường hợp phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó mà mong muốn hậu quả đó xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặt cho hậu quả xảy ra. Lỗi vô ý gồm vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả. Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây nguy hiểm cho xã hội, mặc dù thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người mà tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoàn toàn có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và khả năng điều khiển được hành vi của mình. Đây là dấu hiệu quan trọng để xác định một hành vi nào đó có phải là tội phạm hay không và người thực hiện hành vi đó có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Như vậy, để xác định một người có năng lực trách nhiệm hình sự tại thời điểm thực hiện hành vi cầnd phải dựa vào hai tiêu chí về y học và tâm lý. 2. Các yếu tố cấu thành tội phạm Để xác định được tội phạm nói chung phải dựa vào bốn dấu hiệu nêu trên. Nhưng để xác định từng tội phạm cụ thể phải có những yếu tố riêng, vì mỗi tội phạm xảy ra đều có những diễn biến khác nhau. Vì vậy, nếu việc xác định tội phạm cụ thể chỉ dựa vào bốn dấu hiệu nêu trên thì sẽ dẫn đến nhầm lẫn giữa các tội phạm cụ thể với nhau. Do đó, đòi hỏi phải định ra các yếu tố để xác định từng tội phạm cụ thể. Việc quy định các yếu tố đó trong khoa học hình sự gọi là cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là tổng thể những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Đây chính là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự và là căn cứ pháp lý để định tội danh. Trong luật hình sự Việt Nam quy định có bốn yếu tố cấu thành tội phạm: khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm; chủ thể của tội phạm. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, nhưng bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đáng kể ở một chừng mực nhất định. Dựa vào khách thể của tội phạm mà xác định được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Khách thể càng quan trọng thì tính chất và mức độ nguy hiểm càng lớn. Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm tác động vào quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ gây thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội đó. Nếu không có mặt khách quan của tội phạm thì không có tội phạm. Những dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà bằng các giác quan con người có thể nhận biết được như là hành vi, hậu quả, phương tiện, công cụ, thủ đoạn, thời gian, không gian. Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách cố ý hoặc vô ý có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định theo luật hình sự quy định. Theo luật hình sự tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự là đủ tròn 14 tuổi và tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự là đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm được phản ánh qua hình thức lỗi, động cơ, mục đích của tội phạm. Trạng thái tâm lý bên trong của tội phạm được phản ánh qua những biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Ngược lại, thông qua biểu hiện bên ngoài mà hiểu được trạng thái tâm lý bên trong của tội phạm. Bốn yếu tố cấu thành tội phạm trên là những yếu tố cơ bản điển hình và đặc trưng của mỗi tội phạm. Là căn cứ cơ sở để phân biệt giữa các tội phạm cụ thể với nhau. Mặt khác, thông qua các yếu tố này có thể hiểu bản chất của một tội phạm, tính nghiêm trọng của nó để xác định loại, mức hình phạt cho mỗi tội phạm cụ thể. III. HÌNH PHẠT 1. Khái niệm hình phạt Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật hình sự do toà án áp dụng đối với người phạm tội, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền, lợi ích nhất định của người phạm tội nhằm trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm. Hình phạt cũng như tất cả các chế tài pháp luật khác, nó là một bộ phận của quy phạm pháp luật thể hiện những biện pháp cưỡng chế mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, hình phạt là loại chế tài đặc biệt vì nó chỉ áp dụng đối với một loại hành vi phạm tội. Tính chất đặc biệt của hình phạt được thể hiện qua các đặc điểm của nó: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự. Hình phạt do toà án áp dụng đối với cá nhân người phạm tội. 2. Hệ thống hình phạt Hình phạt là biện pháp cưỡng chế được áp dụng theo một trình tự riêng biệt. Hình phạt trong luật hình sự luôn là một hệ thống bao gồm nhiều loại hình phạt khác nhau. Do vậy, hệ thống hình phạt là một chỉnh thể bao gồm những hình phạt được quy định trong luật hình sự, có phương thức liên kết với nhau theo một trật tự nhất định, do tính chất nghiêm khắc của từng hình thức hình phạt quy định. Hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt phụ: Hình phạt chính: là hình phạt được tuyên một cách độc lập không phụ thuộc vào hình phạt khác. Mỗi tội phạm chỉ có thể được tuyên một hình phạt chính. Hình phạt chính có tính nghiêm khắc cao hơn hình phạt bổ sung, nó chứa đựng mọi thuộc tính của hình phạt. Hình phạt chính bao gồm cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù trung thân, tử hình. Hình phạt bổ sung là hình phạt không được tuyên một cách độc lập mà chỉ có thể kèm theo hình phạt chính phù hợp với đặc điểm một số tội phạm và nhân thân người phạm tội. Hình phạt bổ sung có tác động hỗ trợ, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính, hạn chế đến loại trừ nguyên nhân điều kiện phạm tội, giải quyết tội phạm một cách triệt để. Hình phạt bổ sung bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm những nghề nhất định, cấm cư trú, quản chế tước một số quyền công dân, tước danh hiệu quân nhân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không là hình phạt chính). IV. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ (TỐ TỤNG HÌNH SỰ) Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án), người tiến hành tố tụng (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký phiên toà), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bào chữa), cá nhân cơ quan Nhà nước tổ chức xã hội góp phần vào giải quyết vụ án theo quy định của Bộ lụât tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự là hệ thống những quy phạm pháp luật, điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra truy tố xét xử và chấp hành án hình sự. 1. Khởi tố vụ án hình sự Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên lamd khởi động toàn bộ chu trình tố tụng do cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có hay không có các dấu hiệu của tội phạm để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Theo Bộ luật tố tụng hình sự thì các cơ quan sau đây có quyền khởi tố vụ án hình sự: cơ quan điều tra, viện kiểm sát, bộ đội biên phòng, cơ quan hải quan, kiểm lâm, cảnh sát biển, cơ quan điều tra của công an nhân dân, quân đội và toà án. Khi đã xác định đầy đủ cơ sở và căn cứ, cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình. Quyết định khởi tố vụ án phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng và phải gửi cho viện kiểm sát, cơ quan điều tra để tiến hành hoạt động điều tra. 2. Điều tra vụ án hình sự Điều tra là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc xét xử của toà án. Cơ quan điều tra bao gồm: Cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội, cơ quan điều tra của viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra trong lực lượng an ninh. Nhiệm vụ của cơ quan điều tra là thu thập chứng cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, đối chiếu với Bộ luật hình sựđể xác định điều, khoản vi phạm và xác định người phạm tội. Các hoạt động của cơ quan điều tra: Khởi tố bị can và hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, đối chất và nhận dạng, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực hiện điều tra, giám định. Kết thúc điều tra cơ quan điều tra phải có bản kết luận điều travà quyết định đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra gửi cho viện kiểm sát. 3. Quyết định truy tố bị can Sau khi nhận được hồ sơ vụ án từ cơ quan điều tra gửi sangviện kiểm sát nghiên cứu vụ án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định sau: Truy tố bị can ra trước toà bằng bản cáo trạng; Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Nếu quyết định đưa vụ án ra xét xử thì 15 ngày sau kể từ ngày có quyết định toà án phải mở phiên toà sơ thẩm hình sự. 4. Thẩm quyền và thủ tục xét xử vụ án hình sự Thẩm quyền xét xử: việc xác định toà án nào có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự căn cứ vào quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, thẩm quyền xét xử của toà án các cấp được phân định như sau: Toà án nhân dân cấp quận (huyện) xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm mà có khung hình phạt từ 7 năm tù trở xuống. Toà án nhân dân cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) xét xử sơ thẩm tất cả các loại án trừ những vụ đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền của toà án cấp trên. Toà án nhân dân tối cao xét xử sơ thẩm đồng thời trung thẩm tất cả các loại án. Ngoài ra còn có toà án quân sự chỉ xét xử các vụ án hình sự mà có bị cáo là quân nhân, công nhân, nhân viên quốc phòng và những người liên quan đến nhiệm vụ quân sự. Thủ tục xét xử vụ án hình sự: Thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm Sự có mặt của bị cáo, người bào chữa, kiểm sát viên, người bị hại, người làm chứng, người giám định tại phiên toà. Đọc bản cáo trạng: bắt đầu phiên toà xét xử Xét hỏi: chủ toạ phiên toà hỏi trước, sau đến hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, người bào chữa, người phiên dịch. Hỏi: hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó. Hỏi người làm chứng, xem xét vật chứng tại phiên toà. Hỏi người giám định Tranh luận tại phiên toà, bình đẳng trong tranh luận Bị cáo nói lời sau cùng Toà nghị án và tuyên án Xét xử phúc thẩm: Quyền kháng cáo và kháng nghị bản sơ thẩm, thời hạn kháng cáo, kháng nghị Thời hạn xét xử sơ thẩm Các quyết định phúc thẩm Xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm: Là việc xem lại bản án hoặc quyết định của toà án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật, mà có sự sai lệch trong quá trình xử lý vụ án hoặc phát hiện có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định. Thi hành án hình sự: Việc thi hành bản án hình sự do cơ quan công an, chính quyền xã (phường, thị trấn) cơ sở y học, đội thi hành án.
File đính kèm:
- giao_trinh_phap_luat_dai_cuong_pham_anh_tuan.doc