Quan điểm của Trần Đức Thảo về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội

Tóm tắt Quan điểm của Trần Đức Thảo về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội: ... (1) Trần Đức Thảo (2000), Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, tr.115. (2) Sđd, tr.120 - 121. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10(95) - 2015 54 Đức Thảo, “khi Mác nói “Xã hội không phải là do những cá nhân hợp thành” thì điều...ov ngày 28 tháng 12 năm 1846: “Xã hội - dưới bất cứ hình thái nào - là gì? Nó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người”. Ở đây họ đã hiểu khái niệm “những con người” theo nghĩa là những cá nhân riêng lẻ, coi như tách rời xã hội rồi tự mình tạo ra xã hội. Theo Trần Đức ... sản xuất đã có từ trước và các thế hệ được tiếp nhận những giá trị của chúng để sống, để sáng tạo... Từ đó, Trần Đức Thảo nhấn mạnh và khẳng định lại quan điểm của C.Mác: “Xã hội có trước, cá nhân có sau”. Trong phần thứ 3 của tác phẩm “Một hành trình”, Trần Đức Thảo trình bày sự xu...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 129 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Quan điểm của Trần Đức Thảo về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10(95) - 2015 
 52 
Quan điểm của Trần Đức Thảo 
về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội 
Trần Văn Phòng * 
Ngô Thị Nụ ** 
Tóm tắt: Quan điểm của Trần Đức Thảo về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội 
chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các quan điểm triết học của ông. Theo Trần 
Đức Thảo, con người cá thể ra đời và phát triển trong sự giao thoa với con người nói 
chung, không tách rời con người nói chung; trong mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân 
thì xã hội có trước, cá nhân có sau; muốn chống chủ nghĩa cá nhân thì mỗi con người 
phải ý thức được về quan hệ đạo đức, đó là quan hệ đầu tiên mà loài người đã hình 
thành trong thời khởi nguyên. 
Từ khóa: Trần Đức Thảo; cá nhân; xã hội. 
Giáo sư Trần Đức Thảo là một trong số 
ít các nhà triết học Việt Nam được thế giới 
ghi nhận. Cuộc đời, sự nghiệp của ông được 
đánh dấu bằng sự cống hiến cho triết học 
duy vật biện chứng trên tinh thần duy vật 
nhân bản. Những tác phẩm của ông không 
chỉ thể hiện sự trăn trở, suy tư về con 
người, về đất nước, về cội nguồn dân tộc, 
về lịch sử nhân loại, mà còn là những trăn 
trở về mối quan hệ giữa người với người, 
giữa cá nhân với xã hội, với cộng đồng. Về 
mối quan hệ cá nhân với xã hội, Trần Đức 
Thảo đã lý giải một cách khoa học trên lập 
trường duy vật biện chứng, kiên quyết đấu 
tranh chống lại quan điểm không khoa học, 
bảo vệ quan điểm của chủ nghĩa Mác. 
Trần Đức Thảo cho rằng, con người cá 
thể, cá nhân - nhân cách như là một sự vật, 
một hiện tượng ra đời và phát triển trong sự 
giao thoa với con người nói chung, không 
tách rời con người nói chung. Khi nghiên 
cứu con người nói chung, phải đứng vững 
trên quan điểm duy vật biện chứng để nhận 
thức được mối liên hệ giữa cái chung, tức 
cái vận động của lịch sử tự nhiên đưa đến 
lịch sử con người, cái toàn nhân loại, cái 
dân tộc với cái riêng, tức cái cá thể, cá nhân 
- nhân cách cụ thể. Mối liên hệ ấy mang 
tính duy vật và biện chứng. Cũng từ đó, 
nhận thức cá nhân - nhân cách cụ thể như là 
cái riêng, phải đặt nó trong sự vận động 
biện chứng của lịch sử tự nhiên và trong sự 
vận động biện chứng của lịch sử - xã hội.(*) 
Theo Trần Đức Thảo, các thế hệ, các cá 
nhân - nhân cách luôn luôn được trưởng 
thành, phát triển trong sự giáo dục của gia 
đình, của nhà trường, của phong tục tập 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Học viện 
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. ĐT: 0912148194. 
Email: tvphong61@yahoo.com. 
(**) Thạc sĩ, Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc 
gia Hồ Chí Minh. ĐT: 0919792138. 
 Email: nungo8@gmail.com. 
TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃ HỘI HỌC 
Quan điểm của Trần Đức Thảo... 
 53 
quán, của văn hóa dân tộc và nhân loại, của 
hoạt động thực tiễn xã hội của họ. Con 
người nói chung muốn hiện hữu và phát 
triển trong con người cá thể, cá nhân - nhân 
cách thì một mặt, cá thể, cá nhân - nhân cách 
phải chủ động để tiếp nhận những giá trị 
mang tính nhân loại, tính dân tộc, tính giai 
cấp trong hoạt động thực tiễn của mình; mặt 
khác, cộng đồng xã hội, tức gia đình, nhà 
trường và sau đó là các tổ chức xã hội và 
văn hóa của cộng đồng phải tích cực giáo 
dục để truyền thụ các giá trị của con người 
nói chung vào cho từng cá thể, cá nhân - 
nhân cách. Từ đó, Trần Đức Thảo cho rằng, 
có con người nói chung tồn tại trong từng 
cá thể, cá nhân. Cái căn bản của con người 
nói chung ấy cũng được hình thành từ thời 
khởi nguyên của lịch sử và được duy trì 
trong quá trình phát triển của lịch sử, thông 
qua giáo dục gia đình, nhà trường, làng 
xóm và cộng đồng xã hội dân tộc. Trên nền 
tảng đó xã hội mới phát triển được và mỗi 
cá nhân cũng mới tồn tại và phát triển được. 
Như vậy, tuy chưa đưa ra quan niệm cụ 
thể về khái niệm cá thể - cá nhân - nhân 
cách, nhưng xuất phát từ lập trường của chủ 
nghĩa duy vật biện chứng trên tinh thần 
nhân bản, Trần Đức Thảo đã đưa ra quan 
niệm của mình về con người nói chung. 
Quan niệm này cho rằng, có con người nói 
chung. Con người nói chung này tồn tại, 
thống nhất biện chứng trong con người cá 
thể - cá nhân - nhân cách cụ thể, trong mối 
liên hệ với cộng đồng dân tộc, nhân loại 
trong tiến trình lịch sử. Đó cũng là sự thống 
nhất biện chứng của sinh học - xã hội - tinh 
thần, thể hiện sống động trong nguồn gốc 
của con người, trong sự phát triển của lịch 
sử giống người, trong nguồn gốc của tiếng 
nói và ý thức. Tất cả nhằm khẳng định 
quyền con người, quyền tồn tại của con 
người cá thể - cá nhân - nhân cách cụ thể. 
Trong quan niệm về xã hội, Trần Đức 
Thảo cũng dựa trên quan điểm của chủ 
nghĩa Mác để đưa ra quan niệm của mình. 
Trần Đức Thảo cho rằng, phái Althusser đã 
phân tích đời sống xã hội theo phương pháp 
cấu trúc chủ nghĩa: “Họ xác định mỗi xã 
hội là một hệ thống cấu trúc, tức là một hệ 
thống quan hệ xã hội tự túc riêng biệt, tách 
rời các xã hội khác. Do đấy thì mỗi hệ 
thống quan hệ xã hội tạo nên những con 
người đặc thù của nó, không có con người 
theo nghĩa chung của loài người”(1). Phê 
phán phái Althusser khi phái này đã cắt xén 
câu nói của C.Mác: “Xã hội không phải là 
những cá nhân hợp thành”, Trần Đức Thảo 
bình luận: “Xã hội không phải là một “tập 
hợp”, một “tổng cộng” những cá nhân. Cái 
gì cấu thành nó, là cái hệ thống quan hệ xã 
hội của nó, trong ấy những cá nhân của nó 
sinh hoạt, lao động và đấu tranh. Thật vậy, 
xã hội không phải là một tập hợp những cá 
nhân nói chung, bất kỳ cá nhân nào, coi như 
chừng ấy bản in “con người”. Vì vậy, xã 
hội có những cá nhân của nó, được quy 
định về mặt lịch sử xã hội”(2). 
Trần Đức Thảo đã trích dẫn lại đầy đủ 
câu nói cùng những phân tích của C.Mác và 
khẳng định lại quan điểm của C.Mác: “Xã 
hội không phải là những cá nhân hợp thành. 
Xã hội là biểu hiện sự tổng hợp những liên 
hệ, quan hệ, trong ấy những cá nhân đứng 
người nọ đối với người kia”(3). Theo Trần 
(1) Trần Đức Thảo (2000), Vấn đề con người và chủ 
nghĩa lý luận không có con người, Nxb Tổng hợp 
Tp. Hồ Chí Minh, tr.115. 
(2) Sđd, tr.120 - 121. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10(95) - 2015 
 54 
Đức Thảo, “khi Mác nói “Xã hội không 
phải là do những cá nhân hợp thành” thì 
điều ấy không có nghĩa, như Althusser đã 
hiểu ngược, rằng không có gì là con người 
với tư cách con người theo nghĩa cơ bản 
chung. Mà “Xã hội là biểu hiện sự tổng hợp 
những liên hệ, quan hệ, trong ấy những cá 
nhân đứng người nọ đối với người kia”. 
Câu này, mà Althusser đã bỏ rơi, có nghĩa 
rằng xã hội theo nghĩa ở đây là xã hội giai 
cấp chỉ là một hệ thống quan hệ giai cấp 
giữa những cá nhân với nhau, nó không bao 
hàm bản thân những cá nhân ấy với tư cách 
con người theo nghĩa cơ bản chung”(4). Vậy 
xã hội là gì? Theo Trần Đức Thảo thì: “Xã 
hội là hệ thống được sản sinh ra do tác động 
qua lại của con người, và bản chất của con 
người trong thực tế hiện thực của nó nằm 
trong toàn bộ hệ thống các quan hệ xã 
hội”(5). Ở một chỗ khác ông viết: “Xã hội là 
gì?... nếu không phải là sản phẩm của sự tác 
động qua lại của những con người?”(6). 
Khi đề cập tới mối quan hệ giữa cá nhân 
và xã hội, Trần Đức Thảo kiên quyết bảo vệ 
quan điểm của triết học Mác, trong đó ông 
nhấn mạnh quan điểm “Xã hội có trước, cá 
nhân có sau”. Bằng các lý lẽ, dẫn chứng và 
lập luận của mình, ông đã phê phán các 
quan điểm xuyên tạc, bóp méo, cũng như 
chống lại triết học Mác về vấn đề này. 
Trần Đức Thảo đã kiên quyết bảo vệ 
những nguyên lý cơ bản của triết học duy 
vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt 
là “Luận văn (cương) 6 của C.Mác về 
Phơbách: “Bản chất con người không phải 
là một thứ trừu tượng cố định trong cá nhân 
riêng lẻ. Trong sự thực tế của nó thì nó là 
toàn diện các quan hệ xã hội”(7). Theo ông, 
các quan hệ xã hội là cái có trước trong sự 
sống của mỗi cá nhân, của mỗi thế hệ. Mỗi 
cá nhân, mỗi thế hệ khi ra đời thì trước đó 
đã có xã hội. Các quan hệ xã hội như là cái 
có trước, tạo ra điều kiện và môi trường cho 
các thế hệ, các cá nhân xuất hiện, phát triển. 
Nguyên lý xã hội có trước, cá nhân có 
sau khẳng định các quan hệ xã hội như là 
định chế cho các thế hệ, các cá nhân tồn tại, 
phát triển. Đến lượt các thế hệ, các cá nhân 
lại tạo ra các quan hệ xã hội mới cho sự sống 
của họ phát triển và để lại các quan hệ xã hội 
như những di sản cho các thế hệ tiếp nối 
phát triển. Chính các thế hệ, các cá nhân vừa 
là sản phẩm của lực lượng sản xuất, quan hệ 
sản xuất có trước, vừa là chủ thể của các lực 
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mà họ sáng 
tạo ra. Đây là quan niệm hết sức đúng đắn, 
bởi con người là kết quả của cả các quan hệ 
xã hội lịch đại và đương đại. 
Theo ông, điều đó có nghĩa là, cá nhân 
không thể nào có trước xã hội; trái lại chính 
“toàn diện các quan hệ xã hội” là cái bản 
chất quy định mỗi người thành một cá nhân, 
tức là thành một thành viên có nhiệm vụ và 
quyền lợi, trách nhiệm trong xã hội. Xã hội 
có trước, cá nhân có sau, đấy là một nguyên 
lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.(7) 
Trần Đức Thảo đã đấu tranh chống lại 
những người có quan niệm đối lập lại với 
chủ nghĩa Mác cho rằng: “Cá nhân có trước, 
xã hội có sau”. Xuất phát từ quan điểm sai 
(3) Sđd, tr.136. 
(4) Sđd, tr.143. 
(5) Trần Đức Thảo (2004), Sự hình thành con người, 
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.112. 
(6) Sđd, tr.126. 
(7) Trần Đức Thảo, Báo cáo “Về chuyến đi của tôi 
sang Cộng hòa dân chủ Đức, Hungari và Liên Xô từ 
ngày 8/3 đến 15/7/1982”, Hà Nội, ngày 12 tháng 8 
năm 1982. 
Quan điểm của Trần Đức Thảo... 
 55 
lầm đó, họ đưa ra cả một hệ thống “học 
thuyết mới” bao gồm triết lý mới, kinh tế 
học mới, tâm lý học mới, sinh học mới... Tất 
cả đều chống lại chủ nghĩa Mác. Để biện hộ 
cho quan điểm “cá nhân có truớc, xã hội có 
sau”, họ vin vào một câu của C.Mác trong 
thư gửi Annenkov ngày 28 tháng 12 năm 
1846: “Xã hội - dưới bất cứ hình thái nào - là 
gì? Nó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau 
giữa người với người”. Ở đây họ đã hiểu 
khái niệm “những con người” theo nghĩa là 
những cá nhân riêng lẻ, coi như tách rời xã 
hội rồi tự mình tạo ra xã hội. 
Theo Trần Đức Thảo, trên thực tế thì 
trong cách hiểu của C.Mác, “con người” có 
nghĩa là con người hiện thực sản xuất với 
những sức sản xuất kỹ thuật lao động, trạng 
thái chính trị, v.v.. do xã hội cũ để lại. Và 
những con người ấy xuất phát từ xã hội cũ 
thì lại tác động lẫn nhau trong sự sản xuất, 
do đấy mà xây dựng xã hội hiện hành theo 
quy luật của sự biện chứng lịch sử. Ông lập 
luận: “Theo đấy thì con người cá nhân, với 
tư cách cá nhân, là kết quả của sự biện 
chứng xã hội. Chính sự phát triển xã hội từ 
sức sản xuất lên quan hệ sản xuất và quan 
hệ ý thức hệ được thực hiện trong mỗi 
người sản xuất, làm cho người ấy có trách 
nhiệm và tư thế của mình, tức là một cá 
nhân, có tính chất tương đối độc lập, vai trò 
riêng ít nhiều tự chủ của mình, một phần có 
ý thức, một phần vô thức, trong sự sản xuất 
xã hội”(8). Theo nghĩa ấy mà C.Mác nói: 
“Lịch sử xã hội của con người bao giờ cũng 
chỉ là lịch sử phát triển cá nhân của họ, dù 
họ có nhận thức được điều đó hay không 
cũng vậy” (Thư gửi Annenkov ngày 28 
tháng 12 năm 1846). Từ đó, Trần Đức Thảo 
khẳng định: “Vì sự phát triển cá nhân của 
mỗi người chính là cái quá trình người ấy 
thực hiện vai trò của mình trong sự sản xuất 
và phát triển xã hội, dù anh có ý thức hay 
không: Rõ ràng xã hội là căn bản, cá nhân 
là một đoạn của xã hội hiện tại, một đoạn 
của xã hội hiện hành. Xã hội có trước, cá 
nhân có sau. Luận điểm đối lập: “Cá nhân 
có trước, xã hội có sau” là hoàn toàn phản 
khoa học. Nó trực tiếp chống đối với Luận 
văn 6 của Mác về Phơbách: Bản chất con 
người không phải là một thứ “trừu tượng” 
có nghĩa là đứng ngoài xã hội, có trước xã 
hội. Dĩ nhiên, cá thể động vật thì có trước 
xã hội. Nhưng đã nói cá nhân mà lại bảo 
“có trước xã hội” thì chính như thế là gán 
ghép cho con người cá nhân cái thứ trừu 
tượng mà Mác đã bác bỏ, khi sáng lập chủ 
nghĩa duy vật lịch sử”(9). 
Trần Đức Thảo đã chứng minh quan 
điểm đó bằng sự vận động biện chứng của 
lịch sử. Ở đây, trước hết Trần Đức Thảo 
khẳng định lịch sử xã hội phát triển theo 
quy luật vật chất có trước, tinh thần có sau, 
tinh thần tác động trở lại vật chất. Theo 
quan điểm đó thì tự nhiên là cái có trước, 
lịch sử tự nhiên phát triển đưa đến lịch sử 
xã hội, con người. Theo Trần Đức Thảo, sự 
tồn tại của con người trong hai điều kiện tự 
nhiên: điều kiện tự nhiên thứ nhất là tự 
nhiên nguyên thủy, kể cả mặt sinh vật của 
con người. Điều kiện tự nhiên thứ hai là 
chính cái cộng đồng mà con người tồn tại, 
tất yếu như một tự nhiên. Cộng đồng người 
cá nhân - nhân cách của con người chỉ có 
thể tồn tại và phát triển trong biện chứng 
của hai điều kiện tự nhiên ấy. 
Con người do tự nhiên sinh ra, nhưng 
(8) Tlđd. 
(9) Tlđd. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10(95) - 2015 
 56 
đến bây giờ đã làm chủ tự nhiên. Con người 
biết tự tách mình ra khỏi tự nhiên và dần 
dần cá nhân - cá thể tự hình thành mình 
trong cộng đồng. Cái xã hội có trước, cái cá 
nhân có sau, ngay thời nguyên thủy, và 
trong suốt hành trình vận động của xã hội, 
các thế hệ tiếp theo phải tiếp nhận những 
giá trị của lực lượng sản xuất và quan hệ 
sản xuất ở giai đoạn trước để tiếp tục phát 
triển trong giai đoạn sau. Quá trình đó là 
quá trình phủ định của phủ định. Đồng thời, 
những cá thể người sinh sống muốn tạo ra 
lịch sử thì họ phải sử dụng cái lịch sử đã 
tạo ra, nghĩa là cái xã hội có trước đã tạo 
ra và mỗi cá thể người sinh sống, tức cá 
nhân - nhân cách tiếp nhận những giá trị 
vật chất và tinh thần mà các thế hệ trước 
đã tạo ra. Nói một cách đơn giản, đó là 
những lực lượng sản xuất và quan hệ sản 
xuất đã có từ trước và các thế hệ được tiếp 
nhận những giá trị của chúng để sống, để 
sáng tạo... Từ đó, Trần Đức Thảo nhấn 
mạnh và khẳng định lại quan điểm của 
C.Mác: “Xã hội có trước, cá nhân có sau”. 
Trong phần thứ 3 của tác phẩm “Một 
hành trình”, Trần Đức Thảo trình bày sự 
xuất hiện của ngôn ngữ và ý thức, vai trò 
của ý thức, trong đó có đề cập tới quan hệ 
cá nhân với cộng đồng. Ông khẳng định, ở 
đây, con người vừa hoạt động, vận động 
trong thế giới và con người cũng đồng thời 
phản ánh thế giới và phản ánh sự hoạt động 
của mình trong thế giới ấy, trong cộng đồng 
ấy. Cá nhân và cộng đồng quấn quyện vào 
nhau để lao động và hoạt động. Sự quấn 
quyện ấy có được bởi vì có sự chiếm hữu 
chung và sở hữu chung về địa bàn đất đai 
mà nó tồn tại. Nhưng để có thể khai thác 
điều kiện tự nhiên để sống, thì công cụ lại 
thuộc về cá thể. Mỗi cá nhân lao động bằng 
công cụ nắm trong tay mình, là hòn đá, hay 
hòn đá ghè, hay hòn đá mài, thì đều thuộc 
về cá nhân. Nhưng những công cụ ấy về 
căn bản vẫn thuộc sở hữu chung của cộng 
đồng. Bởi nếu không có cả cộng đồng sở 
hữu chiếm hữu về đất đai thì những công cụ 
ấy không thể phát huy được. Bởi lẽ đó nên 
con người vừa chiếm hữu, vừa sở hữu cái tự 
nhiên nguyên thủy, tức là tự nhiên ngoài 
con người và chính tự nhiên của con người 
(là mặt sinh học), nhưng đồng thời con 
người lại phải chiếm hữu cái cộng đồng của 
mình, tức thị tộc - bộ lạc, và sau này phát 
triển thành dân tộc, vì cá nhân không thể 
tách rời cộng đồng mà tồn tại được. Do đó, 
cá nhân phải chiếm hữu và sở hữu chính 
cộng đồng mà anh ta tồn tại. Sự sở hữu 
cộng đồng ấy chính là sự sở hữu những giá 
trị văn hóa của thị tộc - bộ lạc, và sau này là 
dân tộc. 
Trần Đức Thảo đã chứng minh rằng ý 
thức trước hết là sản phẩm của các cá nhân 
sống. Nghĩa là, ý thức là kết quả của tự 
nhiên, xã hội vận động trong quan hệ biện 
chứng đem lại. Nhưng sự vận động ấy được 
phản ánh trong các cơ thể sống. Và chính vì 
thế nên con người cá nhân là tiềm năng phát 
triển cho xã hội. Ông nhấn mạnh, khi nói 
đến sự vận động biện chứng của ý thức, thì 
không tách rời ý thức xã hội với ý thức của 
từng cá thể, cá nhân - nhân cách. Đó cũng 
là mối quan hệ biện chứng đem lại sự thống 
nhất giữa cộng đồng với cá nhân. Chủ nghĩa 
duy vật biện chứng nhân bản xuất phát từ 
con người; coi con người như là sản phẩm 
của biện chứng lịch sử tự nhiên, lịch sử xã 
hội; coi con người và cá thể, cá nhân - nhân 
cách nhận thức, phản ánh cái biện chứng 
Quan điểm của Trần Đức Thảo... 
 57 
lịch sử tự nhiên, lịch sử xã hội để không 
ngừng phát triển tự do toàn diện trong tất 
yếu của lịch sử ấy. 
Trần Đức Thảo khẳng định, một xã hội, 
cũng như mỗi cá nhân, để phát triển trong 
hiện tại và tương lai, tất yếu phải thấm 
nhuần, đúng hơn là phải sống được những 
giá trị đã được tích lũy trong lịch sử giống 
loài. Điều này có nghĩa là con người có lịch 
sử chung, luôn luôn phát triển trong biện 
chứng của lịch sử, và cũng luôn luôn hiện 
hữu và đồng hành với mỗi cộng đồng và 
mỗi cá nhân. Do vậy, muốn phát triển dân 
tộc và phát triển nhân cách cá nhân thì phải 
tuân theo quy luật ấy. Tức là, nếu anh 
khuyết những giá trị của lịch sử giống loài, 
thì sự phát triển của anh sẽ bị méo mó hoặc 
bản thân anh sẽ “dị ứng” với những giá trị 
ấy. Chính sự méo mó hay “dị ứng” này sẽ 
biến thái thành chủ nghĩa cực đoan, đặc biệt 
là trong các hoạt động chính trị và tôn giáo. 
Bản thân Trần Đức Thảo suốt cuộc đời 
mình đã đấu tranh quyết liệt và không mệt 
mỏi chống lại chủ nghĩa cực đoan ấy. 
Thông qua việc đấu tranh bảo vệ quan 
điểm của chủ nghĩa Mác về “Xã hội có 
trước, cá nhân có sau”, Trần Đức Thảo đã 
bác bỏ tận gốc luận điểm cho rằng cá nhân 
có trước xã hội có sau. Về mặt thực tiễn, từ 
luận điểm này Trần Đức Thảo đã đấu tranh 
chống những biểu hiện tiêu cực của chủ 
nghĩa cá nhân, thể hiện trên mọi mặt của 
đời sống xã hội. Theo ông, “Luận điệu “cá 
nhân có trước, xã hội có sau” là cơ sở lý 
luận phản khoa học của “chủ nghĩa cá 
nhân”, nó hoàn toàn đối lập với toàn thể 
thành tựu khoa học hiện đại, đối lập với 
chủ nghĩa xã hội khoa học”(10). 
Trần Đức Thảo chỉ rõ, muốn chống chủ 
nghĩa cá nhân thì mỗi con người phải ý thức 
được về quan hệ giá trị đầu tiên mà loài 
người đã hình thành trong thời khởi 
nguyên, tức là quan hệ đạo đức. Những 
quan hệ ấy chỉ mang ý nghĩa thực tế khi cả 
cộng đồng biết công nhận, biết phát huy 
cái quyền sở hữu cá nhân tức sở hữu bản 
thân của người lao động, trên cơ sở ấy mà 
mỗi con người ý thức được về giá trị của 
mình và pháp luật phải công nhận giá trị ấy. 
Phải kế thừa, bồi đắp, phát triển các lớp giá 
trị bền vững của con người nói chung để tạo 
ra sự phát triển bền vững cho xã hội. Tư 
tưởng này có ý nghĩa lý luận nhân đạo và 
thực tiễn sâu sắc.(10) 
Có thể nói, những trăn trở không nguôi 
của Trần Đức Thảo trong suốt cuộc đời 
mình vẫn hướng tới là vấn đề con người, 
vấn đề cá nhân trong xã hội. Với ông, giá trị 
của mỗi cá thể - cá nhân và giá trị cộng 
đồng dân tộc, nhân loại chỉ có thể phát triển 
trong mối quan hệ biện chứng, theo xu 
hướng thống nhất quá khứ - hiện tại - tương 
lai. Theo ông, suy cho cùng mục đích của 
việc nghiên cứu triết học cũng vì con người, 
vì nhân dân. Ông đã chọn cách đi từ hiện 
tượng học đến chủ nghĩa duy vật biện 
chứng bởi ông nhận thức rằng, đó là con 
đường duy nhất đúng để giải phóng dân tộc 
thoát khỏi chế độ thực dân. Nhưng có độc 
lập dân tộc rồi thì phải phát triển dân chủ, 
tự do để giải phóng con người, tạo tiền đề 
cho con người phát triển toàn diện, làm cơ 
sở để con người và xã hội loài người phát 
triển toàn diện theo hướng ngày một tự do, 
dân chủ, tiến bộ, nhân văn, nhân bản. Đây 
là những giá trị nhân văn và khoa học. 
(10) Tlđd. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10(95) - 2015 
 58 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_tran_duc_thao_ve_moi_quan_he_giua_ca_nhan_va_x.pdf