Tài liệu Các thời kỳ lịch sử Việt Nam – Phần 1

Tóm tắt Tài liệu Các thời kỳ lịch sử Việt Nam – Phần 1: ...và chia thành 9 quận, riêng địa phận Âu Lạc cũ gồm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ Bộ đặt dưới quyền cai trị của một Thứ Sử, mỗi quận có một Thái Thú cai quản. Ỏ các địa phương, các Lạc Hầu, Lạc Tướng người Việt vẫn được giữ chức cũ nhưng hàng năm phải nộp thóc lúa và phẩm ...i trận, rồi mắc bệnh mà mất. B. Cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương (791) Năm 791 Phùng Hưng khởi nghĩa chiếm được phủ đô hộ rồi sửa sang việc cai trị, được mấy tháng thì mất. Dân chúng lập đền thờ tôn ông là Bố Cái Đại Vương. Con Phùng Hưng lên cầm quyền nhưng thế yếu phải ra hàng quân T...ống để giữ tình hoà hảọ Năm 972 Tống vương phong Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm thì bị tên cận vệ Đỗ Thích ám sát năm 979. Con nhỏ là Đinh Tuệ được lập làm vua, nhưng chỉ được một năm thì bị truất ngôi. XIỊ Thời Lê (980 - 1009) (Tiền Lê) - Lê ...

pdf16 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tài liệu Các thời kỳ lịch sử Việt Nam – Phần 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ VIỆT NAM – 
PHẦN 1 
I. Thời đại Thái cổ (trước Thế Kỉ 29 tr.D.L.) 
Từ thời rất xa xưa có những bộ lạc cư trú tại vùng bao quanh châu thổ sông Hồng. 
Lúc đó châu thổ còn là vịnh biển, mực nước cao hơn hiện nay 50 thước. Các bộ 
lạc tiền sử sống rải rác trên vùng cao (có mức thấp nhất là cao hơn mức nước biển 
hiện tại 50 thước), từ bắc Trường Sơn tới Hoàng Lyên Sơn và bao ra biển ở các 
rặng Bắc Sơn, Ngân Sơn và quanh các nơi có cuồng lưu nước ngọt. Khoảng thời 
gian đó cách nay chừng một triệu năm. Mãi về sau có hai trung tâm phát triển 
mạnh là Hoà Bình và Bắc Sơn. Thời gian ấy cách nay khoảng từ 60 ngàn năm tới 
40 ngàn năm. 
Các người tiền sử sống bằng săn thú và hải sản. Phương tiện lúc đầu là tay chân, 
sau biết dùng xương thú vật làm tăng khả năng của tay để phát triển lượng số thực 
phẩm. Dần dần người tiền sử biết dùng lửa, nhờ đó đời sống quy củ hơn. 
Khi nước biển rút dần tới mức hiện tại khoảng chừng 40 ngàn năm trước các bộ 
lạc tiền sử bỏ dần vùng cao và tụ tập hợp sinh tại vùng châu thổ sông Hồng. Lúc 
đầu vùng châu thổ còn nhiều đầm lầy, rừng rậm và hầu hết mặt đất chưa ráo nước, 
người tiền sử vẫn phải sống bằng săn thú và hải sản. 
Khi đất đồng bằng đủ vững, các bộ lạc này sống bằng trồng tỉa, sau biết trồng lúa 
gạọ Đó là thời kỳ mở đầu cho nông nghiệp; văn minh nông nghiệp manh nha. 
Trong suốt thời gian hợp sinh tại châu thổ khoảng 40 ngàn năm trước các bộ lạc 
tiền sử tương giao trong khoảng thời gian chừng 30 ngàn năm rồi hình thành một 
chủng tộc là Việt tộc. Việt tộc đã tạo nên nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên 
thế giới khoảng 15 ngàn năm trước dương lịch (văn minh Hoà Bình: đồ đá khoảng 
20 ngàn năm trước dương lịch nông nghiệp khoảng 15 ngàn năm tr.D.L. đồ gốm 
khoảng trước 10 ngàn năm tr.D.L.). Địa bàn căn bản là châu thổ sông Hồng. Văn 
hoá Việt đã được xây dựng dần dần để trở thành nền văn hoá tâm linh và dân Việt 
là một dân tộc văn hiến từ xa xưa. 
IIỊ Thời Thục (257 tr.D.L. 207 tr.D.L.) 
Năm 257 tr.D.L. Thục Phán thắng vua Hùng thứ 18. Lên ngôi lấy hiệu An Dương, 
đặt tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê, nay thuộc Đông Anh, tỉnh Vĩnh 
Yên. 
Để phòng bị giặc phương bắc, vua An Dương cho xây thành Cổ Loa rất kýên cố. 
Thành có ba tầng vòng quanh xoáy vào trung tâm như trôn ốc nên cũng gọi là Loa 
Thành. 
Về sau, Triệu Đà là tướng của Tàu ở vùng Nam Hải (nay thuộc tỉnh Quảng Đông 
của Tàu) kéo quân sang Âu Lạc đánh phá nhiều lần nhưng đều thất bạị Thấy đánh 
mãi không được Triệu Đà bèn lập mưu cầu hoà, cho con là Trọng Thuỷ sang nước 
Việt xin cưới công chúa Mị Châu, rồi lập mưu đánh úp. Vua An Dương bị bại 
trận, chạy tới Mộ Dạ (Thanh Hoá) thì tự tử (207 tr.D.L.). 
IIỊ Thời Thục (257 tr.D.L. - 207 tr.D.L.) 
Năm 257 tr.D.L. Thu.c-Phán thắng vua Hùng thứ 18. Lên ngôi lấy hiệu AnĐương, 
đặt tên nước là Âu-Lạc, đóng đô ở Phong-Khê, nay thuộc Đông Anh, tỉnh Vĩnh-
Yên. 
Để phòng bị giặc phương bắc, vua AnĐương cho xây thành Cổ-Loa rất kiên cố. 
Thành có ba tầng vòng quanh xoáy vào trung tâm như trôn ốc nên cũng gọi là Loa-
Thành. 
Về sau, Triệu Ðà là tướng của Tầu ở vùng Nam-Hải (nay thuộc tỉnh QuảngĐDông 
của Tầu) kéo quân sang Âu-Lạc đánh phá nhiều lần nhưng đều thất bạị Thấy đánh 
mãi không được Triê.uĐDà bèn lập mưu cầu hoà, cho con là Tro.ng-Thuỷ sang 
nước Việt xin cưới công-chúa Mi.-Châu, rồi lập mưu đánh úp. Vua AnĐương bị 
bại trận, chạy tới Mô.Đa. (Thanh-Hoá) thì tư.-tử (207 tr.D.L.). 
IV. Thời Triệu (207 tr.D.L. - 111 tr.D.L.) 
Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải (nay 
thuộc Quảng Đông của Tàu) và quận Quế Lâm (nay thuộc Quảng Tây của Tàu) để 
lập thành nước Nam Việt. Nhờ học được văn hoá Việt tộc, Triệu Đà bỏ tính cương 
bạo du mục, nên tách ra khỏi thế lực nhà Tần của Tàu, rồi định lập kế đời đời với 
dân Việt, bèn lập nước riêng và lên làm vuạ Lấy hiệu là Triệu Vũ Vương, đóng đô 
ở Phiên Ngung (nay thuộc tỉnh Quảng Tây của Tàu). Triệu Đà chia nước Âu Lạc 
thành hai quận Giao Chỉ (Bắc Việt) và Giao Châu (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà 
Tĩnh). Triệu Đà mất (137 tr.D.L.), nhà Triệu còn truyền thêm được bốn đời vuạ 
- Triệu Văn Vương (Hồ) 137 tr.D.L. - 125 tr.D.L. 
- Triệu Minh Vương (Anh Tề) 125 tr.D.L. - 113 tr.D.L. 
- Triệu Ai Vương (Hưng) 113 tr.D.L. - 112 tr.D.L. 
- Triệu Dương Vương (Kiến Đức)112tr.D.L. - 111 tr.D.L. 
Vào đời Ai Vương, thái hậu Cù Thị xúi vua dâng nước cho nhà Hán, tể tướng Lữ 
Gia bèn giết vua cùng thái hậu rồi lập người anh khác mẹ của Ai Vương là Kiến 
Đức (mẹ của Kiến Đức là người Việt) lên ngôi, gọi là Dương Vương, để cùng bầy 
kế chống nhà Hán, nhưng thế lực không đủ nên năm 111 trước dương lịch bị 
tướng Hán là Lộ Bác Đức đánh chiếm mất nước. 
V. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (111 tr.D.L. - 39) (Lần thứ nhất) 
Nhà Tây Hán (của Tàu) chiếm được nước Nam Việt, đổi tên là Giao Chỉ Bộ và 
chia thành 9 quận, riêng địa phận Âu Lạc cũ gồm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và 
Nhật Nam. Giao Chỉ Bộ đặt dưới quyền cai trị của một Thứ Sử, mỗi quận có một 
Thái Thú cai quản. Ỏ các địa phương, các Lạc Hầu, Lạc Tướng người Việt vẫn 
được giữ chức cũ nhưng hàng năm phải nộp thóc lúa và phẩm vật cho các quan 
Tàụ Các Thái Thú và Thứ Sử người Hán lúc đó hầu hết rất bạo tàn. 
VI. Thời Nữ vương họ Trưng (40-43) 
Vào thời Tô Định làm thái thú quận Giao Chỉ, một thủ lãnh người Việt tên là Thi 
Sách vì mưu việc đuổi Tàu mà bị giết. 
Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị tiếp tục ý chí cách mạng, phất 
cờ khởi nghĩa đánh Tàu giành độc lập. Hai bà được dân chúng khắp nơi hưởng 
ứng, chiếm lại được 65 thành trì và đánh đuổi quân Tô Định về Tàụ Hai bà xưng 
vương năm 40, đóng đô ở Mê Lynh (nay thuộc tỉnh Phúc Yên). Nhà Hán phải sai 
một danh tướng tên là Mã Viện sang đánh. Hai bà yếu thế, thất trận, tự trầm ở 
sông Hát vào năm 43. 
Ngày nay ở làng Đồng Nhân, gần Hà Nội, có đền thờ hai bà. Ngày ký? niệm hai 
bà Trưng là ngày mồng 6 tháng hai âm lịch hàng năm. 
VII. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (43-544) (Lần thứ hai) 
A. Việc đô hộ khắc nghiệt 
Từ khi Mã Viện chiếm được Giao Chỉ, chế độ đô hộ của Đông Hán lại càng khắc 
nghiệt hơn. Đổi Giao Chỉ thành Giao Châụ Các lạc hầu, lạc tướng đều bị mất hết 
quyền hành, Giao Châu bị chia thành nhiều huyện, do các huyện lệnh người Tàu 
cai tri.. 
Đời sống dân chúng rất khốn cực vì bị bọn đô hộ hành hạ, bóc lột đến tận cùng. 
B. Bà Triệu khởi nghĩa (248) 
Năm 248, Bà Triệu khởi nghĩa ở quận Cửu Chân, đánh thắng quân Tàu nhiều trận, 
khiến chúng khiếp sợ, nên gọi là bà là Lệ Hải Bà Vương. Nhưng vì quân ít, thế cô, 
bà Triệu bị thất trận, chạy tới làng Bồ Điền (Thanh Hoá) thì tự tử. Ngày nay tại đó 
còn có đền thờ Bà Triệụ 
VIIỊ Thời Lý (544 - 602) 
- Lý Nam Đế 544 - 549 
- Triệu Việt Vương 549 - 571 
- Hậu Lý Nam Đế 571 - 602 
Năm 541 Lý Bôn khởi nghĩa đánh đuổi quân Tàu, chiếm được Long Biên, thứ sử 
Tiêu Tư phải chạy trốn về Tàu. 
Năm 544, Lý Bôn lên ngôi vua, lấy hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. 
Nhà Lương bên Tàu sai Trần Bá Tiên sang gây chiến, Lý Nam Đế phải lui về 
Khuất Lyêu (Hưng Hoá) và trao quyền cho Triệu Quang Phục. Thấy thế giặc 
mạnh, Triệu Quang Phục bèn lập căn cứ ở đầm Dạ Trạch (phủ Khoái Châu tỉnh 
Vĩnh Yên) và dùng lối đánh du kých khiến quân Tàu phải thất trận, rồi chiếm lại 
kýnh độ Lúc đó Lý Nam Đế bị bịnh mất, Triệu Quang Phục lên ngôi, xưng là 
Triệu Việt Vương, năm 549. Tới năm 571 Lý Phật Tử cướp ngôi của Triệu Việt 
Vương, rồi xưng là Hậu Lý Nam Đế. 
Năm 602, quân Tàu lại kéo sang đánh phá, Lý Phật Tử thế yếu phải hàng giặc. 
IX. Thời kỳ bị Tàu đô hộ (603-939) (Lần thứ ba) 
Thời kỳ này các quan lại Tàu rất khắc nghiệt. Năm 679, nhà Đường của Tàu thiết 
lập An Nam Đô Hộ Phủ ở Giao Châu, để gia tăng bóc lột hà hiếp dân chúng. Khắp 
nơi trong nước, dân chúng nổi lên chống bọn đô hô.. 
Ạ Mai Hắc Đế khởi nghĩa ở Châu Hoan (Nghệ An) (722) 
Mai Thúc Loan khởi binh đánh Tàu, chiếm lại vùng châu Hoan (Nghệ An) năm 
722, rồi xưng Hoàng Đế, người đời thường gọi ông là Mai Hắc Đế. Ông liên kết 
vây cánh với Lâm Ấp và Chân Lạp, nhưng việc chuẩn bị chưa xong thì ông bị bại 
trận, rồi mắc bệnh mà mất. 
B. Cuộc khởi nghĩa của Bố Cái Đại Vương (791) 
Năm 791 Phùng Hưng khởi nghĩa chiếm được phủ đô hộ rồi sửa sang việc cai trị, 
được mấy tháng thì mất. Dân chúng lập đền thờ tôn ông là Bố Cái Đại Vương. 
Con Phùng Hưng lên cầm quyền nhưng thế yếu phải ra hàng quân Tàu (lúc đó là 
nhà Đường của Trung Hoa). 
C. Họ Khúc dấy nghiệp (906 - 923) 
Vào cuối đời Đường, nước Tàu rất loạn lạc, thừa cơ ấy dân Việt khởi nghĩa khắp 
nơi, Tiết độ sứ thất bại phải chạy về Tàụ Năm 906 dân chúng tôn Khúc Thừa Dụ 
người Hồng Châu (Hải Dương) lên làm tiết độ sứ.Nhà Đưòng vì suy yếu phải 
thuận phong cho Khúc Thừa Du.. Cai trị được một năm thì ông mất, con là Khúc 
Hạo lên thaỵ Sửa sang lại việc cai trị như một nước tự chủ. Năm 917 Khúc Hạo 
mất, Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp. Năm 923, quân Tàu Nam Hán sang đánh 
chiếm Giao Châu, rồi sai Lý Tiến làm thứ sử. 
X. Thời Ngô (939 - 965) 
- Tiền Ngô Vương 939 - 944 
- Dương Tam Kha 945 - 950 
- Hậu Ngô Vương 950 - 965 
- Loạn 12 Sứ Quân 945 - 967 
Năm 931, tướng cũ của họ Khúc là Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân 
Nam Hán, rồi tự xưng làm tiết độ sứ. Cai trị được 6 năm thì bị bộ tướng là Kiều 
Công Tiện ám sát để cướp quyền. 
Con rể của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền mang quân từ châu Ái (Thanh Hoá) 
ra báo thù. Kiều Công Tiện bị thua bèn cầu cứu Nam Hán. Ngô Quyền giết Tiện 
rồi tiến binh phá tan quân Nam Hán trong trận sông Bạch Đằng, chấm dứt thời kỳ 
bị Tàu đô hộ, lập lại nền độc lập cho nước Việt. 
Năm 939 Ngô Quyền lên làm vua, đóng đô ở Cổ Loa (Phúc Yên). Vua Ngô Quyền 
sửa sang việc cai trị, tổ chức chế độ quân chủ và thiết lập nền độc lập vững bền, 
nhưng mới trị vì được 5 năm thì mất. Con là Ngô Xương Ngập lên ngôi, nhưng lại 
bị cậu là Dương Tam Kha (em vợ của Ngô Quyền) cướp ngôi (945). Em Ngô 
Xương Ngập là Ngô Xương Văn diệt Dương Tam Kha (950) rồi hai anh em cùng 
làm vua, xưng là Hậu Ngô Vương. Đến năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương 
Văn bị chết trận tại Thái Bình. Thế lực vua Ngô càng ngày càng suy yếu, thổ hào 
các nơi nổi lên tranh cướp quyền hành, chia nước thành 12 vùng cai trị riêng biệt, 
thủ lãnh mỗi vùng xưng là sứ quân. Thời này của nước Việt gọi là "Loạn 12 Sứ 
Quân". 
Loạn bắt đầu năm 945, mãi tới năm 967, Đinh Bộ Lĩnh mớI chấm dứt được. 
XỊ Thời Đinh (968 - 980) 
- Đinh Tiên Hoàng 968 - 979 
- Đinh Tuệ 979 - 980 
Đinh Bộ Lĩnh là một vị tướng tài ba, dẹp tan loạn 12 Sứ Quân năm 968, lập nên 
triều đại nhà Đinh. 
Đinh Bộ Lĩnh người ở Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình), con của Đinh Công 
Trứ làm thứ sử châu Hoan dưới thời nhà Ngộ Ngay khi còn bé đã tỏ ra có mưu trí 
hơn người, lớn lên theo giúp và làm con nuôi sứ quân Trần Lãm. Khi Trần Lãm 
mất, Đinh Bộ Lĩnh đem quân về Hoa Lư để rèn luyện. Khi cử binh đánh các sứ 
quân, trận nào cũng thắng nên được tôn là Vạn Thắng Vương. Chỉ trong vòng một 
năm, dẹp tan loạn 12 sứ quân. 
Năm 968 Vạn Thắng Vương lên ngôi, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đổi tên nước 
là Đại Cồ Việt, lập đô ở Hoa Lự Đinh Tiên Hoàng sửa sang việc nước, thiết lập 
triều quy, tổ chức quân đội, đặt hình luật rất nghiêm khắc. 
Vì muốn yên mặt bắc, vả lại thế lực nhà Tống bên Tàu đang mạnh, Đinh Tiên 
Hoàng cho con sang triều cống nhà Tống để giữ tình hoà hảọ Năm 972 Tống 
vương phong Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương. 
Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm thì bị tên cận vệ Đỗ Thích ám sát năm 
979. Con nhỏ là Đinh Tuệ được lập làm vua, nhưng chỉ được một năm thì bị truất 
ngôi. 
XIỊ Thời Lê (980 - 1009) (Tiền Lê) 
- Lê Đại Hành 980 - 1005 
- Lê Trung Tông 1005 
- Lê Long Đĩnh 1005 - 1009 
Cuối đời Đinh Tiên Hoàng, nhà vua chỉ ham mê tửu sắc, rồi bị ám sát cùng với 
thái tử Đinh Lyễn năm 979. Đinh Tuệ mới 6 tuổi được lập làm vua, nhưng quyền 
hành về cả tay Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn. 
Năm 980, nhà Tống của Tàu lấy cớ đó mang quân sang đánh nước Việt. Lê Hoàn 
được triều thần tôn lên làm vua để lo việc chống ngoại xâm. Quân Tàu kéo sang 
theo đường Lạng Sơn và sông Bạch Đằng. Nhưng mới chỉ tới Chi Lăng thì bộ binh 
của Tàu bị vua Lê Đại Hành đánh tan, thuỷ quân Tàu thấy vậy hoảng sợ phải rút 
luị Vua Tống thấy đánh không được phải tôn phong vua Lê Đại Hành là Giao Chỉ 
Quận Vương để giữ tình hoà hảo (993). Vua Đại Hành lại đánh phá quân Chiêm ở 
phía nam, khiến nước này phải thần phục năm 982. 
Vua Đại Hành mất năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua, thái tử Long 
Việt lên ngôi, nhưng mới được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người ám sát để 
cướp ngôi. Long Đĩnh lên ngôi năm 1005, là người rất hung ác, đam mê tửu sắc và 
bệnh hoạn. Khi ngự triều phải nằm. Người trong nước gọi ông là Lê Ngoạ Triềụ 
Long Đĩnh chết năm 1009. 
XIIỊ Thời Lý (1009 - 1225) (Hậu Lý) 
- Lý Thái Tổ 1010 1028 
- Lý Thái Tông 1028 1054 
- Lý Thánh Tông 1054 1072 
- Lý Nhân Tông 1072 1127 
- Lý Thần Tông 1128 1138 
- Lý Anh Tông 1138 1175 
- Lý Cao Tông 1176 1210 
- Lý Huệ Tông 1211 1225 
- Lý Chiêu Hoàng 1225 
Lê Long Đĩnh chết, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi, ông xưng là Lý Thái Tổ, 
rời kýnh đô về thành Đại La, nay là Hà Nộị Tục truyền rằng khi Lý Thái Tổ vào 
thành Đại La thì thấy rồng vàng bay lên đón rước do đó mà đổi tên là thành Thăng 
Long. 
Lý Thái Tổ rất sùng đạo Phật nên cho xây chùa khắp nơi và truyền bá rất nhiều 
kýnh Phật cho dân chúng. 
Đến đời Lý Thánh Tông tên nước đổi là Đại Việt (1054). Năm 1069, Lý Thánh 
Tông mở mang bờ cõi về phía nam. Đem quân đánh Chiêm Thành, bắt vua Chiêm 
là Chế Củ mang về Thăng Long. Chế Củ phải dâng đất để chuộc mạng, gồm các 
châu Địa lý, Ma Lynh và Bố Chính (nay là Quảng Bình, Quảng Trị). 
Năm 1075, Lý Nhân Tông cử Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn quân chia 
thành hai đạo thuỷ bộ đánh chiếm 3 châu Khâm, Lyêm và Ung của Tàu (lúc đó 
nhà Tống đang cai trị nước Tàu). 
Thời Lý kéo dài hơn 200 năm, truyền được 9 đời vua. Vị cuối cùng là một nữ 
vương, lên ngôi mới 7 tuổi, xưng là Lý Chiêu Hoàng. Vì Lý Chiêu Hoàng còn nhỏ 
tuổi nên quyền hành đều ở trong tay Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Đô.. Trần Thủ 
Độ lập mưu để Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi ép Chiêu Hoàng 
nhường ngôi cho chồng năm 1225. 
XIV. Thời Trần (1225 - 1400) 
- Trần thái tông 1225 1258 
- Trần thánh tông 1258 1278 
- Trần Nhân Tông 1278 1293 
- Trần Anh Tông 1293 1314 
- Trần Minh Tông 1314 1329 
- Trần Hiến Tông 1329 1341 
- Trần Dụ Tông 1341 1369 
- Trần Nghệ Tông 1370 1372 
- Trần Duệ Tông 1372 1377 
- Trần Phế Đế 1377 1388 
- Trần Thuận Tông 1388 1398 
- Trần Thiếu Đế 1398 1400 
Trần Cảnh lên ngôi vua, xưng là Trần Thái Tông, nhưng mọi quyền hành đều nằm 
trong tay Thái sư Trần Thủ Đô.. 
Thời Trần nho học rất thi.nh. Ỏ kýnh đô, ngoài Quốc Tử Giám đã có từ thời Lý, 
triều đình cho lập thêm Quốc Học viện để giảng tứ thư, ngũ kýnh. Nước chia 
thành 12 Bộ, tại mỗi bộ đều có trường dạy học. 
Văn học thời Trần rất thi.nh. Đời này có nhiều nhân tài như Lê Văn Hưu đã soạn 
bộ Đại Việt Sử Kí rất có giá trị; Mạc Đĩnh Chi, nhà văn học lỗi lạc, nổi tiếng trong 
việc ngoại giao với nhà Nguyên của Tàu; Chu An, nhà văn học tài ba nêu gương 
thanh khiết và cương trực; Nguyễn Thuyên có công xây dựng nền tảng cho văn 
Nôm. 
Trần Quốc Tuấn soạn "Hịch Tướng Sĩ" được đời truyền tu.ng. Các vua nhà Trần 
đều có soạn Ngự Tập. 
Võ công thời Trần rất hiển hách, đã tạo được một võ nghiệp oanh liệt trong lịch sử 
thế giới, là đánh bại đoàn quân bách thắng Mông Cổ. Lúc đó Mông Cổ đã toàn 
thắng khắp nơi từ Trung Á tới Đông Âu và chiếm trọn nước Tàu ở phía bắc nước 
Việt. Thế mà ba lần Mông Cổ sang xâm lấn nước Việt đều bị thất bại (năm 1257, 
năm 1284, năm 1287). Chiến thắng đại quân Mông Cổ, Đức Hưng Đạo Vương 
Trần Quốc Tuấn xứng đáng là vị tướng tài ba bậc nhất cổ kim. 
Đời Trần Anh Tông mở mang bờ cõi về phía nam. Nhà vua gả công chúa Huyền 
Trân cho vua Chiêm Chế Mân. Hôn lễ của vua Chiêm là châu Ô và châu Rị Năm 
1307, vùng này được đổi thành châu Thuận và châu Hoá (nay là vùng Thừa 
Thiên). 
Cuối thời Trần, các vua trở nên kém cỏi, triều đình suy yếu, dân nước đói khổ, 
quyền hành đều nằm cả trong tay Hồ Quý Lỵ 

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_cac_thoi_ky_lich_su_viet_nam_phan_1.pdf