Tài liệu Các thời kỳ lịch sử Việt Nam – Phần 2

Tóm tắt Tài liệu Các thời kỳ lịch sử Việt Nam – Phần 2: ... giết vua Lê Cung Hoàng (1527), soán đoạt ngôi vuạ XIX. Thời Lê - Mạc tranh quyền (1527 - 1592) - Thái Tổ Mạc Đăng Dung 1527 - 1529 - Thái Tông Mạc Đăng Doanh 1529 - 1540 - Hiến Tông Mạc Phúc Hải 1540 - 1546 - Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên 1546 - 1561 - Mạc Mậu Hợp 1561 - 1592 Mạc Đăng ... Chính trị miền Bắc (Đàng Ngoài) chỉ quanh quẩn việc ngôi vị và cai trị địa phương cùng lăm le đánh chiếm miền Nam. Miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn ngoài việc lo chống các chúa Trịnh ở Bắc, vẫn lo được việc mở mang bờ cõi. Lấy các đất của Chiêm Thành, Thuỷ Chân Lạp để thành lập các tỉ... Chúa Trịnh Giang 1729 - 1740 Nguyễn Phúc Trú 1725 - 1738 Trịnh Doanh 1740 - 1767 Nguyễn Phúc Khoát 1738 - 1765 Trịnh Sâm 1767 - 17882 Nguyễn PhúcThuần 1765 - 1777 Trinh Cán 1782 - 1783 (làmm chúa được 2 tháng) Trịnh Khải 1783 - 1786 XXỊ Thời Tây Sơn (1788 - 1802) - Vua Quang trung 178...

pdf14 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 353 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tài liệu Các thời kỳ lịch sử Việt Nam – Phần 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ VIỆT NAM – 
PHẦN 2 
XV. Thời Hồ (1400 - 1407) 
- Hồ Quý Ly 1400 
- Hồ Hán Thương 1401- 1407 
Các vua cuối nhà Trần trí kém, tài hèn nên Hồ Quý Ly nắm trọn quyền hành. Đến 
năm 1400 Hồ Quý Ly truất phế Trần Thiếu Đế rồi xưng làm vua, đóng đô ở Tây 
Đô (Thanh Hoá), đổi tên nước là Đại Ngụ 
Hồ Quý Ly cải tổ mọi việc trong nước, lập thuế thuyền buôn, chế tiền giấy thay 
tiền đồng để tiện lưu dụng, dịch sách chữ Nho sang chữ Nôm; dùng chữ Nôm 
trong việc giáo dục cùng trong các văn kýện hành chánh. Tổ chức binh bị rất chu 
đáo, lập sổ dân và tuyển thêm quân, định binh chế, đóng chiến thuyền, xây thành 
luỹ, lập kho lương và xưởng chế tạo vũ khí. 
Năm 1402 đánh Chiêm Thành mở rộng bờ cõi phía nam, Chiêm Thành thất trận, 
phải dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam) và Cổ Luỹ (Quảng Ngãi). 
Năm 1406 nhà Minh bên Tàu lấy cớ giúp nhà Trần sai Trương Phụ và Mộc Thạch 
đem đại quân sang đánh nước Việt. Quân sĩ nhà Hồ yếu hèn, lực lượng quốc gia 
suy kém, dân chúng bị đói khổ vì những năm suy vi cuối thời Trần, nên quân 
Minh đã thắng dễ dàng. Hồ Quý Ly và con cháu chạy vào tới Hà Tĩnh thì bị quân 
Minh bắt, rồi giải sang Tàụ Về sau, nhà Minh khai thác tài trí con cháu nhà Hồ để 
phát triển nền văn minh Trung Hoa. 
XVỊ Hậu Trần Kháng Chiến Chống Tàu (1407 - 1413) (Hậu Trần) 
- Giản Định Đế 1407 - 1409 
- Vua Trùng Quang 1409 - 1413 
Sau khi dứt nhà Hồ, quân Tàu chiếm nước Việt, thiết lập việc cai tri.. 
Con cháu nhà Trần phải chịu lao khổ kháng chiến chống quân Minh. Hoàng Đế 
Giản Định (Trần Quỹ), vua Trùng Quang (Trần Quý Khoách) gặp nhiều gian nan. 
Cuối cùng, thế yếu tất cả đều bị thất bạị 
XVIỊ Thời kỳ bị Tàu (nhà Minh) đô hộ (1414 - 1427) 
Ạ Việc Tàu đô hộ 
Thắng được nhà Hồ và con cháu nhà Trần, quân Minh thiết lập việc đô hộ rất tàn 
bạo, bóc lột dân Việt đến cùng cực: tiêu huỷ sách vở, tận thu tài liệu văn hoá Việt 
mang về Tàu để mạo thành tài liệu của Tàu, bắt dân Việt học chữ Hán, đầy đoạ 
dân chúng trong cảnh khốn cực, lầm than. 
B. Lê Lợi Đánh Tàu Phục Quốc (1418 1427) 
Năm 1418 Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, khởi nghĩa đánh Tàu ở Lam Sơn 
(Thanh Hoá). Lúc đầu, thế còn yếu, Lê Lợi phải rút quân về núi Chí Lynh ba lần 
để thế thủ và rèn luyện quân sĩ. 
Tới năm 1424, theo sách lược của Nguyễn Trãi, Bình Định Vương đánh thắng 
quân Minh liên tiếp, chiếm lại các đất từ Thanh Hoá vào nam. 
Năm 1426 Bình Định Vương tiến quân ra bắc, đánh tan đại quân của Vương 
Thông tại Tuỵ Động, chém chết Liễu Thăng ở Chi Lăng, giành lại độc lập cho 
người Việt năm 1427. 
XVIIỊ Thời Lê (Hậu Lê) (1428 - 1527) 
- Lê Thái Tổ 1428 - 1433 
-Lê Thái Tông 1433 - 1442 
- Lê Nhân Tông 1442 - 1459 
- Lê thánh Tông 1460 - 1497 
- Lê Hiến Tông 1497 - 1504 
- Lê túc Tông 1504 
- Lê Uy Mục 1505 - 1509 
- Lê Tương Dực 1509 - 1516 
- Lê Chiêu Tông 1516 - 1524 
- Lê Cung Hoàng 1524-1527 
Sau khi đuổi xong giặc Tàu, Bình Định Vương lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Thái 
Tổ, đóng đô ở Thăng Long, tên nước vẫn là Đại Việt. 
Ỏ thời Lê, mọi việc trong nước đều được sửa sang. Việc cai trị sắp đặt tốt đẹp, luật 
pháp nghiêm minh. Bộ luật Hồng Đức là bộ luật rất hoàn bị đã được ban hành 
dưới triều Lê Thánh Tông (1460 1497) 
Việc học được khuyến khích. Triều đình đặt lệ khắc tên những người đỗ tiến sĩ 
vào bia đá và được vinh quy bái tổ. 
Thời này có nhiều tác phẩm danh tiếng còn truyền đến nay như: Đại Việt Sử Kí 
Toàn Thư của Ngô Sĩ Lyên, thơ văn của Nguyễn Trãi (Gia Huấn Ca, Bình Ngô 
Đại Cáo, v.v.). 
Võ công và việc mở mang bờ cõi cũng rất lẫy lừng, Lê Thánh Tông đánh Chiêm 
Thành, lấy đất, lập thành đạo Quảng Nam (1471). Năm 1479 xứ Bồn Man (Trấn 
Ninh, nước Lào) liên kết với nước Lão Qua (nước Lào) nổi lên quấy phá, Lê 
Thánh Tông sai quân đánh dẹp, xứ Bồn Man xin quy thuận. 
Vào cuối thời Lê, các vua sinh tật, ham mê tửu sắc, xa xỉ thái quá, khiến dân nước 
khổ sở, giặc giã nổi lên khắp nơị Quan triều thì giành nhau quyền lợi. Tướng Mạc 
Đăng Dung dẹp yên loạn ở triều rồi giết vua Lê Cung Hoàng (1527), soán đoạt 
ngôi vuạ 
XIX. Thời Lê - Mạc tranh quyền (1527 - 1592) 
- Thái Tổ Mạc Đăng Dung 1527 - 1529 
- Thái Tông Mạc Đăng Doanh 1529 - 1540 
- Hiến Tông Mạc Phúc Hải 1540 - 1546 
- Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên 1546 - 1561 
- Mạc Mậu Hợp 1561 - 1592 
Mạc Đăng Dung giết vua Lê Cung Hoàng rồi soán ngôi, lập nên nhà Mạc. Mạc 
Đăng Dung lên ngôi xưng là Minh Đức, vẫn theo chính sách của các triều Lê mà 
trị nước. 
Đến năm 1540, Mạc Đăng Dung hàng phục Tàu và nhận chức phong Đô Thống 
Sứ của nhà Minh. Đa số các quan triều không phục, người thì ẩn tránh, người thì 
nổi lên chống lại. 
Con một cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim nổi lên, lập con cháu nhà Lê lên làm vua 
để chống nhà Mạc. Nguyễn Kim đánh chiếm được từ Thanh Hoá vào nam, chia 
đôi đất nước với nhà Mạc. 
Năm 1545, Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm thế quyền. Trịnh Kiểm sợ con 
cái Nguyễn Kim không chịu bèn giết em vợ là Nguyễn Uông và bắt Nguyễn 
Hoàng vào trấn ở đất Thuận Hoá (1558). Trịnh Kiểm mất, Trịnh Tùng lên thay 
năm 1592. Trịnh Tùng đem quân đánh nhà Mạc ở bắc, giết được Mạc Mậu Hợp, 
chiếm kýnh thành, diệt xong nhà Mạc, hoàn thành việc trung hưng nhà Lê. 
Ạ Các Vua Lê Trong Thời kỳ Lê Mạc Chiến Tranh (1533 - 1592) 
- Lê Trang Tông 1533 - 1548 
- Lê Trung Tông 1548 - 1556 
- Lê Anh Tông 1556 - 1573 
- Lê Thế Tông 1573 - 1599 
B. Các Vua Lê trong Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh 
- Lê Kính Tông 1560 - 1619 
- Lê Thần Tông 1619 - 1643 
- Lê Chân Tông 1643 - 1649 
- Lê Thần Tông 1649 - 1662 (làm vua lần thứ hai) 
- Lê Huyền Tông 1663 - 1671 
- Lê Gia Tông 1672 - 1675 
- Lê Hi Tông 1676 - 1705 
- Lê Dụ Tông 1706 - 1729 
- Lê Đế Duy Phương 1729 - 1732 
- Lê Thuần Tông 1732 - 1735 
- Lê Ý Tông 1735 - 1740 
- Lê Hiển Tông 1740 - 1786 
- Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) 1787 - 1788 
XX. Thời Lê Trung Hưng (1592 - 1788) 
Trong thời Lê Trung Hưng thì từ năm1627 tới 1672 là giai đoạn Nam Bắc phân 
tranh giữa họ Trịnh và Nguyễn, kéo dài 45 năm. 
Trong thời Trung Hưng, vua Lê chỉ có hư vị, Trịnh Tùng xưng chúa, rồi cha 
truyền con nối, nắm hết quyền hành ở miền Bắc, gọi là Đàng Ngoàị Nguyễn 
Hoàng xưng chúa ở miền Nam, lập thành một khu vực tự trị, gọi là Đàng Trong. 
Chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều muốn tiêu diệt nhau để nắm trọn quyền hành, nên 
sinh thù nghịch và gây việc chiến tranh. 
Năm 1627, chúa Trịnh lấy cớ chúa Nguyễn không chịu nộp thuế cho vua Lê nên 
sai quân vào đánh miền Nam, bắt đầu cuộc chiến tranh Nam Bắc. 
Trong vòng 45 năm Trịnh, Nguyễn đánh nhau 7 lần không phân thắng bại nên hai 
bên phải giảng hoà, cắt nước làm đôi, lấy sông Gianh làm ranh giới hai miền Bắc, 
Nam. 
Chính trị miền Bắc (Đàng Ngoài) chỉ quanh quẩn việc ngôi vị và cai trị địa 
phương cùng lăm le đánh chiếm miền Nam. 
Miền Nam (Đàng Trong) các chúa Nguyễn ngoài việc lo chống các chúa Trịnh ở 
Bắc, vẫn lo được việc mở mang bờ cõi. Lấy các đất của Chiêm Thành, Thuỷ Chân 
Lạp để thành lập các tỉnh Bình Định năm 1558, Phú Yên năm 1611, Khánh Hoà 
năm 1653, Biên Hoà và Gia Định năm 1698, Hà Tiên năm 1708. 
Nhưng ở miền Nam từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm 1765 thì sinh rối 
loạn do quyền thần Trương Thúc Loan, làm nhiều điều tàn ác, dân chúng oán giận. 
Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ khởi nghĩa ở làng 
Tây Sơn (Bình Định), đánh chiếm Quy Nhơn rồi lấy luôn từ Quảng Ngãi vào Bình 
Thuận. 
Chúa Trịnh thừa cơ miền Nam rối loạn bèn sai quân vào đánh lấy Phú Xuân 
(1775). Chúa Nguyễn bị thua, chạy vào 
Quảng Nam, nhưng lại bị Nguyễn Nhạc đánh bại, nên phải trốn vào Gia Đi.nh. Ỏ 
đây chúa Nguyễn Phúc Thuần bị 
tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ giết chết. 
Lúc đó, Nguyễn Nhạc thấy quân Trịnh đang mạnh bèn hàng thuận để khỏi lo mặt 
Bắc, rồi tiến quân đánh chúa Nguyễn. Chiếm lấy đất Gia Định (1777). 
Sau khi thắng miền Nam, Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, xưng hiệu là Thái Đức, lập 
kýnh đô ở thành Đồ Bàn năm 1778. 
Còn ở Đàng Ngoài thì rối loạn. Cuối đời Trịnh Khải có loạn kýêu binh (1782). 
Nguyễn Huệ nhân dịp đó chiếm Thuận Hoá, rồi thừa thế tiến ra Thăng Long. Trịnh 
Khải bị thua phải tự tử. Thế là cơ nghiệp nhà chúa chấm dứt (1786). 
Nguyễn Huệ trả quyền cai trị cho vua Lê Hiển Tông rồi rút quân về Nam. Lê Hiển 
Tông mất, cháu là Duy Kỳ nối ngôi, niên hiệu Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống nhu 
nhược, bất tài nên Trịnh Bồng lại ép vua để lập lại nghiệp chúạ Nguyễn Hữu 
Chỉnh từ Thanh Hoá ra giúp Chiêu Thống dẹp được Trịnh Bồng, rồi từ đó Nguyễn 
Hữu Chỉnh cậy công mà chuyên quyền. 
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đóng đô ở Thuận Hoá được tin Nguyễn Hữu Chỉnh 
áp chế vua Lê bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Chiêu Thống 
thấy Vũ Văn Nhậm đưa quân ra bắc thì sợ hãi rồi chạy trốn và gởi con sang Tàu 
cầu viện quân Thanh (1788). 
Vũ Văn Nhậm ở bắc có ý phản nghịch, Bắc Bình Vương phải thân chinh ra bắt 
Nhậm giết đi, rồi trao quyền cai trị đất bắc cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm. 
Các Chúa Trịnh ở Bắc Các Chúa Nguyễn ở Nam 
Trịnh Tùng 1570 - 1623 Nguyễn Hoàng 1600 - 1613 Chúa Tiên 
Trịnh Tráng 1623 - 1657 NguyễnPhúcNguyên 1613 1635 Chúa Sãi 
Nguyễn Phúc Lan 1635 - 1648 Chúa Thượng 
Trịnh Tạc 1657 - 1682 Nguyễn Phúc Tần 1648 - 1687 Chúa Hiền 
Trịnh Căn 1682 - 1709 Nguyễn Phúc Trăn 1687 - 1691 Chúa Nghĩa 
Trịnh Cương 1709 - 1729 Nguyễn Phúc Chu 1691 - 1725 Quốc Chúa 
Trịnh Giang 1729 - 1740 Nguyễn Phúc Trú 1725 - 1738 
Trịnh Doanh 1740 - 1767 Nguyễn Phúc Khoát 1738 - 1765 
Trịnh Sâm 1767 - 17882 Nguyễn PhúcThuần 1765 - 1777 
Trinh Cán 1782 - 1783 (làmm chúa được 2 tháng) 
Trịnh Khải 1783 - 1786 
XXỊ Thời Tây Sơn (1788 - 1802) 
- Vua Quang trung 1788 - 1792 
- Vua Cảnh Thịnh 11792 - 1802 
Vua Thanh Càn long mượn cớ Lê Chiêu Thống cầu viện để thôn tính nước Việt, 
đã sai Tôn Sĩ nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Quân Thanh theo ba đường: Tuyên 
quang, Cao bằng và Lạng sơn (1788). 
Ngô Văn Sở thấy không thể kháng cự nổi, bèn rút quân về núi Tam điệp. 
Lê Chiêu Thống theo quân Tôn Sĩ nghị vào Thăng long và nhận chức An Nam 
Quốc vương do vua Thanh Càn long phong cho, rồi ỷ vào thế quân Tàu thả sức lo 
việc chém giết báo thù. Còn quân Thanh thì thả sức cướp bóc, giết hại dân Việt. 
Dân chúng miền Bắc phải sống trong cảnh vô cùng kýnh hoàng khốn cực. 
Được tin quân Thanh sang xâm lăng, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế (1788), 
lấy hiệu Quang Trung, rồi kéo 10 vạn quân ra Bắc tiễu phạt quân Tàụ 
Ngày 10 tháng chạp quân Việt tới núi Tam Điệp, Hoàng Đế Quang Trung cho 
dừng binh để quân sĩ ăn tết trước, rồi ngày 30 tháng chạp hỏa tốc tiến đánh. Quân 
Tàu liên tiếp bị thất bại ở các mặt trận Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đạ 
Các danh tướng Tàu Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống đều bị chết trận. Tôn Sĩ Nghị 
quá sợ hãi phải rút tàn quân chạy trốn về Tàụ Thế là chỉ trong vòng năm (5) ngày, 
Quang Trung đại phá quân Thanh (1789). Lê Chiêu Thống và gia đình chạy theo 
Tôn Sĩ Nghị sang Tàu, rồi sau này bị chết nhục ở nước ngườị 
Sau khi đại phá quân Thanh, Quang Trung lo sắp xếp, ổn định nội trị và ngoại giaọ 
Vì vua Thanh Càn Long có lòng kýnh nể Hoàng Đế Quang Trung nên việc giao 
hoà giữa hai nước sớm được ổn định tốt đẹp. Việc nội trị, Quang Trung định đô tại 
Nghệ An, là Phượng Hoàng Trung Đô và gọi Thăng Long là Bắc Thành. Nước 
được chia thành nhiều trấn, có trấn thủ coi việc võ, hiệp trấn coi việc văn. 
Lập sổ điền, khuyến khích nông nghiệp, phát triển buôn bán, đúc tiền đồng, cải 
cách và khuyến khích văn học, dùng chữ Nôm làm quốc tự, bỏ chữ Hán. 
Nhà vua rất chú trọng việc quân sự, lập sổ đinh, tuyển chọn binh sĩ và tập luyện 
chuyên cần, để lo việc tương lai đánh Tàu lấy lại đất Lưỡng Quảng (Quảng Đông, 
Quảng Tây). Nhưng vị vua anh tài bậc nhất trong lịch sử bị mất sớm (1792) nên 
quốc sách không thi hành được. 
Con của Quang Trung là Quang Toản lên ngôi lấy hiệu Cảnh Thi.nh. Quang Toản 
nhỏ tuổi, trong nước gặp lúc khó khăn lộn xộn, nên về sau bị Nguyễn Ánh lấy mất 
nghiệp (1802). 
Thời Tây Sơn, nước Việt bị chia làm ba miền: Miền Bắc do Nguyễn Huệ cai trị; 
Miền Trung do anh cả Nguyễn Nhạc cai quản; Miền Nam do anh thứ hai Nguyễn 
Lữ chỉ huỵ Khi chúa Nguyễn mất nghiệp thì còn sót lại một người dòng dõi nhà 
Nguyễn là Nguyễn Ánh, tụ tập quân sĩ đánh nhau với Nguyễn Lữ, chiếm được 
thành Gia Định, xưng vương năm 1780. 
Sau Nguyễn Ánh lại bị thất bại phải chạy ra vùng hải đảo cùng trốn sang Xiêm La 
(Thái Lan) cầu cứu quân Xiêm và thế lực Tây Phương. 
Năm 1788 Nguyễn Ánh lại chiếm được Gia Định, rồi nhân cơ hội anh em Tây Sơn 
bất hoà, cùng nhờ được một số người Pháp giúp sức và luyện tập binh sĩ nên tính 
việc đánh Bắc Hà. 
Từ năm 1790 cứ theo mùa gió nồm (thổi từ nam lên bắc) Nguyễn Ánh đem binh 
thuyền ra đánh phá Tây Sơn, khi đổi chiều gió thì rút đị Cho nên dân chúng gọi 
các trận ấy là "giặc mùa". 
Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn 3 lần mới thắng (1799) rồi đổi tên là Bình Đi.nh. 
Năm 1801 Nguyễn Ánh mang toàn lực hạ thành Phú Xuân (Huế). Vua Cảnh Thịnh 
phải chạy ra Bắc. Chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, xưng là Gia 
Long năm 1802. Lập kýnh đô ở Phú Xuân và đổi tên nước là Việt Nam. 
Gia Long ra đánh Bắc Hà trong vòng một tháng thì toàn thắng, vua Quang Toản 
cùng các tướng đều bị bắt rồi bị giết. Thời Tây Sơn chấm dứt năm 1802, Nguyễn 
Ánh chiếm được Thăng Long và thống nhất đất nước ngày 20 tháng 7 năm 1802. 

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_cac_thoi_ky_lich_su_viet_nam_phan_2.pdf