Bàn về trình độ sáng tạo trong việc bảo hộ sáng chế đối với các bài thuốc cổ truyền của Việt Nam

Tóm tắt Bàn về trình độ sáng tạo trong việc bảo hộ sáng chế đối với các bài thuốc cổ truyền của Việt Nam: ...này vẫn quy định việc có thể cấp patent cho các quá trình vi sinh vật hoặc các sản phẩm của chúng [9]. Nhưng điều A4(2) tại Chỉ thị công nghệ sinh học của Cộng đồng châu Âu 1998 (Biotechnology Directive 98/44/EC) lại quy định có thể cấp patent cho giải pháp kỹ thuật, nếu giải pháp này ...ữa lành vết thương mãn tính và cấp tính [14]. - Dữ kiện đã biết: phản ứng của cơ thể đối với thuốc (pharmacokinetics) liên quan đến đặc tính sinh học của củ nghệ; - Trình độ sáng tạo của sáng chế: + Thực nghiệm cho thấy quá trình lành vết thương trên da có liên quan đến các tế bào nội ...xin là hoạt chất chính được đề cập trong patent CN 1227102A như đã nêu trên, do đó tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt của sáng chế thuốc cai nghiện ma túy là không đạt trình độ sáng tạo so với patent đối chứng CN 1227102A. - Mặt khác, giải pháp kỹ thuật nêu trong bản mô tả sáng chế ...

pdf11 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bàn về trình độ sáng tạo trong việc bảo hộ sáng chế đối với các bài thuốc cổ truyền của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Độ. 
- Khoản 6 điều 59 Luật SHTT quy định 
tương đồng với Công ước sáng chế châu Âu 
1973 có thể cấp patent cho các quá trình vi sinh. 
Khác biệt: quy định của Hoa Kỳ cấp patent 
theo nguyên tắc sáng tạo trước (first to invent) 
là khác biệt với quy định của Ấn Độ, Việt Nam 
và một số quốc gia khác. Nguyên tắc này có 
lợi cho Hoa Kỳ, bởi vì sự tồn tại độc lập của 
từng hoạt chất thảo dược (mà các nước đang 
phát triển sở hữu) được coi là không mới, 
không đạt trình độ sáng tạo, nhưng sự tổ hợp 
của nhiều hoạt chất thảo dược lại được coi là 
đạt trình độ sáng tạo (an inventive nature), nếu 
giải pháp kỹ thuật mà nó giải quyết không phải 
là sự kết hợp đơn giản của các giải pháp kỹ 
thuật đã biết. Từ đó, không quá khó để nhận 
thấy các phòng thí nghiệm công nghệ dược 
phẩm tiên tiến của các nước phát triển cho 
phép họ dễ dàng thực hiện việc tổ hợp này, 
nhưng ngược lại trình độ công nghệ dược 
phẩm lạc hậu của các nước đang phát triển lại 
khó thực hiện các thí nghiệm tương tự. Dẫn 
đến về mặt kinh tế là có lợi cho các nước phát 
triển và bất lợi cho các nước đang phát triển. 
3. Nghiên cứu trường hợp thực tiễn 
3.1. Trường hợp sáng chế có liên quan đến củ 
nghệ tại nước ngoài 
Bài viết lấy trường hợp sáng chế về củ nghệ 
(gọi tắt là sáng chế nghệ), sáng chế này có liên 
quan đến Ấn Độ và Hoa Kỳ để nghiên cứu. 
T.V.Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học,Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 67
Như đã biết, gần như tất cả các gian bếp của 
người Ấn Độ đều xuất hiện củ nghệ, tác dụng 
chữa bệnh đa dạng của nghệ đã được người Ấn 
Độ biết đến 5 ngàn năm nay, nhưng ngày 
28.3.1995 Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa 
Kỳ (US Patent and Trademark Office - 
USPTO) đã cấp sáng chế nghệ mang ký hiệu 
US 5.401.504 cho hai đồng tác giả sáng chế là 
công dân Hoa Kỳ gốc Ấn Độ, trong đó Harihar 
Cohly là nhà nghiên cứu miễn dịch 
(immunologist) và Suman K. Das là bác sĩ 
phẫu thuật (surgeon). 
Các nhà khoa học Ấn Độ đã phản ứng 
quyết liệt trước quyết định của USPTO. Trước 
hết cần thấy rằng những thông tin về tác dụng 
dược lý của nghệ đã được Ấn Độ lưu giữ tại 
Thư viện số về tri thức truyền thống 
(Traditional Knowledge Digital Library), như 
vậy giải pháp kỹ thuật này là không mới, vấn 
đề còn lại cần phải nghiên cứu để trả lời câu 
hỏi giải pháp kỹ thuật mà patent US 5.401.504 
đề cập có đạt trình độ sáng tạo hay không? 
Khi tra cứu trong cơ sở dữ liệu của USPTO 
[13], chúng tôi đã thu được những thông tin 
chính về sáng chế này như sau: 
S 
Số hiệu patent US5401504 A 
Số hiệu đơn patent 08/174.363 
Ngày cấp patent 28.3.1995 
Ngày nộp đơn 28.12.1993 
Ngày ưu tiên 28.12.1993 
Tác giả sáng chế Harihar Cohly, Suman K. Das 
Chủ sở hữu patent University of Mississippi Medical Center 
- Bản chất của sáng chế: sáng chế đề cập 
đến việc sử dụng nghệ để tăng cường quá trình 
chữa lành vết thương mãn tính và cấp tính 
[14]. 
- Dữ kiện đã biết: phản ứng của cơ thể đối 
với thuốc (pharmacokinetics) liên quan đến 
đặc tính sinh học của củ nghệ; 
- Trình độ sáng tạo của sáng chế: 
+ Thực nghiệm cho thấy quá trình lành vết 
thương trên da có liên quan đến các tế bào nội 
mô, những tế bào này không phân chia dễ dàng 
nhưng lại phát triển nhanh chóng nếu có tác 
động của dược lý. 
+ Thực nghiệm cho thấy nghệ là một loại 
dược lý có tác dụng đẩy nhanh quá trình phân 
bào nguyên nhiễm của các tế bào nội mô. 
Như vậy, USPTO đã cho rằng sáng chế đã 
đạt trình độ sáng tạo và đã cấp patent cho nó. 
Nhưng thực chất, giải pháp mà sáng chế nghệ 
đề cập không chỉ ra được đặc tính khác biệt 
của nghệ so với những đặc tính đã biết của 
nghệ. Việc chỉ ra quá trình lành vết thương 
trên da có liên quan đến các tế bào nội mô và 
nghệ có tác dụng làm các tế bào nội mô phát 
triển không thể coi là đạt trình độ sáng tạo, mà 
đây chỉ là các thí nghiệm chứng minh tác dụng 
của nghệ, người Ấn Độ đã biết các tác dụng 
này của nghệ, tuy nhiên trình độ y học của họ 
chưa thể chỉ ra mối quan hệ giữa nghệ và tế 
bào nội mô. Như vậy, trình độ sáng tạo (nếu 
có) trong trường hợp này thuộc về lĩnh vực y 
học (ví dụ miễn dịch học hoặc ngoại khoa) chứ 
không thuộc lĩnh vực dược học, mà sáng chế 
nghệ thì lại thuộc lĩnh vực dược học. Cần lưu ý 
thêm, theo quy định của pháp luật thì không 
thể cấp patent đối với phương pháp chữa bệnh 
cho người. 
Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công 
nghiệp (Council for Scientific and Industrial 
Research - CSIR) New Delhi đã đại diện cho 
Chính phủ Ấn Độ phản đối quyết định của 
T.V. Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 
68
USPTO. CSIR đã dẫn các văn bản được lưu 
giữ và chứng minh patent US5401504A không 
mới và không đạt trình độ sáng tạo. Trong vụ 
này CSIR phải chi khoảng 12.000 USD cho 
dịch vụ pháp lý. Ngày 13.8.1997 USPTO đã ra 
quyết định hủy patent US5401504A. 
3.2. Trường hợp bị từ chối cấp patent tại Việt 
Nam 
Để có tư liệu viết bài này, tác giả đã nghiên 
cứu 3 sáng chế từ nguồn Công báo sở hữu 
công nghiệp số 242 tập A (phát hành tháng 
5.2008) và số 267 tập A (phát hành tháng 
6.2010). Tài liệu do công báo đăng tải không 
thuộc diện giữ bí mật. 
 3.2.1. Sáng chế thuốc đông y chữa đau thắt 
động mạch vành 
Giải pháp yêu cầu bảo hộ đề cập đến thuốc 
đông y chữa đau thắt động mạch vành chứa 
các thành phần đan sâm, tam thất, huyết kiệt, 
băng phiến tổng hợp (boméon) và polyetylen 
glycol. 
Đã biết: 
- Bài thuốc “Gia vị ích tâm thang” đăng 
trong sách Thiên gia diệu phương do Viện 
Thông tin thư viện Y học Trung ương phát 
hành năm 1989 chứa các thành phần đan sâm, 
tam thất, huyết kiệt, đẳng sâm, hoàng kỳ, cát 
căn 
- Huyết kiệt được biết có tác dụng tán ứ, 
sinh tân, hoạt huyết, làm hết đau dùng trong 
trường hợp đau ngực, đau bụng, trừ tà khí 
trong ngũ tạng đăng trong “Những cây thuốc 
và vị thuốc Việt Nam” do Nhà xuất bản Y học 
phát hành 2005; 
Đánh giá: người có hiểu biết trung bình 
trong lĩnh vực đông y có thể dễ dàng kết hợp 
huyết kiệt với tam thất, băng phiến và đan sâm 
để thu được thuốc đông y chữa bệnh đau thắt 
động mạch vành theo giải pháp nêu trong đơn 
yêu cầu bảo hộ. 
Như vậy, yêu cầu bảo hộ không đáp ứng 
trình độ sáng tạo quy định tại điều 25.6.c 
Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN, do đó sáng 
chế bị từ chối cấp patent. 
3.2.2. Sáng chế thuốc đông y chữa bệnh ra 
mồ hôi trộm ở trẻ em 
Giải pháp yêu cầu bảo hộ đề cập đến thuốc 
đông y chữa bệnh ra mồ hôi trộm ở trẻ em 
chứa các thành phần dược liệu thục địa, hoài 
sơn, sơn thù, mẫu đơn, bạch phục linh, trạch 
trả, ngũ vị tử, mạch môn, đại táo, ma hoàng 
căn, đường kính trắng, đường lactoza. 
Đã biết: 
- Bài thuốc “lục vị địa hoàng hoàn” đăng 
trong sách Phương tễ học giảng nghĩa do Nhà 
xuất bản Y học phát hành năm 1994 có tác 
dụng bổ can thận dùng để chữa các triệu chứng 
liên quan đến thận âm bất túc, hư hỏa bốc lên, 
xương nóng đau, váng đầu, chóng mặt, ra mồ 
hội trộm ở trẻ em, tự ra mồ hôi, đa mộng tinh, 
tiêu khát, lưỡi khô có chứa các thành phần 
thục địa, hoài sơn, sơn thù, đơn bì, bạch linh, 
trạch trả, nếu bổ sung thêm mạch môn, ngũ vị 
thì gọi là “mạch vị địa hoàng hoàn” dùng để 
chữa chứng phế thận âm hư, ho ra máu, sốt 
đêm ra mồ hôi, lao phổi. 
- Vị thuốc ma hoàng căn được biết có tác 
dụng điều trị ra mồ hôi và đại táo có tác dụng 
trị hư phiền, mất ngủ, tự ra mồ hôi. 
Đánh giá: người có hiểu biết trung bình 
trong lĩnh vực đông y có thể dễ dàng kết hợp 
đại táo và ma hoàng căn với bài thuốc “lục vị 
địa hoàng hoàn” để thu được thuốc đông y 
chữa bệnh ra mồ hôi trộm ở trẻ em theo giải 
pháp yêu cầu bảo hộ nêu trong đơn. 
Như vậy, sáng chế bị từ chối cấp patent vì 
không đáp ứng trình độ sáng tạo quy định tại 
điều 25.6.c Thông tư 01/2007. 
T.V.Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học,Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 69
Qua phân tích 2 sáng chế trên cho thấy 
chúng không đạt trình độ sáng tạo bởi vì giải 
pháp kỹ thuật mà sáng chế đề cập chỉ là sự kết 
hợp đơn giản của các giải pháp kỹ thuật đã biết 
với chức năng, mục đích và hiệu quả cũng là 
sự kết hợp đơn giản chức năng, mục đích và 
hiệu quả của từng giải pháp kỹ thuật đã biết. 
Bài viết xin phân tích trường hợp dưới đây 
để chứng minh sáng chế không đạt trình độ 
sáng tạo khi tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác 
biệt mang tính hiển nhiên, không được coi là 
sáng tạo so với giải pháp kỹ thuật đã biết. 
 3.2.3. Sáng chế thuốc cai nghiện ma túy 
Bản mô tả sáng chế nêu: thuốc cai nghiện 
ma túy được tạo ra từ việc sử dụng độc tố cá 
nóc (tetrodotoxin, saxitoxin ở dạng dung dịch 
chiết được tách từ gan và trứng cá nóc độc) kết 
hợp với các thảo dược với tỷ lệ phối chế 
tetrodotoxin, saxitoxin 20mg, đẳng sâm 20mg, 
hoàng kỳ 12mg, thục địa 20mg, đương quy 
12mg, viễn chí 8mg, toan táo nhân 16mg, bình 
vôi 8mg, trần bì 12mg, mộc hương 12mg, sa 
nhân 12mg, đan sâm 12mg, xuyên khung 
12mg, xích thược 12mg và tá dược 80mg. 
Thuốc không chỉ loại bỏ được sự đòi hỏi 
của cơ thể đối với các loại thuốc gây nghiện 
như thuốc phiện, ma túy và các chất gây 
nghiện khác mà còn tăng khả năng miễn dịch 
của cơ thể. 
Đã biết tetrodotoxin là hoạt chất chính có 
tác dụng cai nghiện được đề cập trong patent 
CN 1227102A do Trung Quốc cấp ngày 
09.6.1998. 
Đánh giá: 
- Người có trình độ trung bình trong lĩnh 
vực dược phẩm liên quan đến độc tố thần kinh 
như tetrodotoxin, saxitoxin cũng biết rằng 
trong các loài cá nóc ở Việt Nam lượng 
saxitoxin đồng thời có trong dịch chiết xuất là 
rất nhỏ so với tetrodotoxin, vấn đề này đã được 
nêu trong tài liệu Nghiên cứu độc tố trong một 
số loài cá nóc độc ở biển Việt Nam do Cục 
Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản công 
bố ngày 10.4.2008. Xin lưu ý tetrodotoxin là 
hoạt chất chính được đề cập trong patent CN 
1227102A như đã nêu trên, do đó tập hợp các 
dấu hiệu cơ bản khác biệt của sáng chế thuốc 
cai nghiện ma túy là không đạt trình độ sáng 
tạo so với patent đối chứng CN 1227102A. 
- Mặt khác, giải pháp kỹ thuật nêu trong 
bản mô tả sáng chế thuốc cai nghiện ma túy 
không chỉ ra tác dụng khác biệt của saxitoxin 
trong thành phần của thuốc, đồng thời cũng 
không chỉ ra tác dụng cai nghiện của các thảo 
dược trong thành phần của thuốc. 
Như vậy, sáng chế không đạt trình độ sáng 
tạo so với giải pháp đã biết mà patent CN 
1227102A đề cập, theo quy định tại Điều 25.6 
Thông tư 01/2007 sáng chế bị từ chối cấp 
patent. 
4. Giải pháp cho vấn đề nghiên cứu 
4.1. Giải pháp pháp lý đối với trình độ sáng 
tạo của bài thuốc cổ truyền 
Trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, Việt 
Nam nên sớm ban hành quy định pháp luật về 
việc văn bản hóa các bài thuốc cổ truyền theo 
kinh nghiệm của Ấn Độ đã xây dựng Thư viện 
số về tri thức truyền thống (Traditional 
Knowledge Digital Library) [15] đồng thời 
cũng thỏa mãn quy định của Công báo Hiệp 
ước hợp tác về sáng chế (PCT) về hướng dẫn 
tìm kiếm quốc tế. Làm được điểm này, chúng 
ta sẽ loại bỏ nguy cơ các quốc gia khác chiếm 
đoạt bài thuốc cổ truyền của Việt Nam. 
Trên bình diện pháp luật quốc tế, như đã 
biết kể từ năm 2003 Cơ quan Liên Hợp Quốc 
về hợp tác và phát triển (UNCTAD) đã đưa 
Việt Nam ra khỏi danh sách các quốc gia chậm 
phát triển (Least developed countries), do đó 
T.V. Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 
70
Việt Nam không được hưởng quy chế cho 
phép lùi thời hạn chuyển tiếp bảo hộ sáng chế 
đối với các quốc gia chậm phát triển đến 2016 
như đã nêu trong Điều 7 Tuyên bố riêng về 
TRIPS và sức khỏe cộng đồng của Hội nghị Bộ 
trưởng Doha (The Doha Declaration on TRIPS 
and Public Health, paragraph 7). Như vậy, việc 
Việt Nam cần ban hành các quy định của pháp 
luật cho phù hợp với quy định của TRIPS (trong 
đó có cả các ngoại lệ về sáng chế dược phẩm) là 
điểm cần dự tính. 
Hiệp định TRIPS quy định ngoại lệ đối với 
bảo hộ sáng chế dược phẩm trong một số trường 
hợp, trong đó có sáng chế liên quan đến giống 
động thực vật. Tuyên bố Doha đã nhấn 
mạnh “việc thi hành và giải thích Hiệp định 
TRIPS theo cách hỗ trợ sức khỏe cộng đồng 
bằng cách thúc đẩy cả việc tiếp cận dược phẩm 
hiện có và sáng chế ra các dược phẩm mới” 
[16], xét trên khía cạnh kinh tế thì quy định này 
mang lại lợi ích cho các quốc gia có nền công 
nghiệp dược phẩm phát triển. 
Về trình độ sáng tạo của bài thuốc cổ truyền 
nên tham khảo điều A4(2) Chỉ thị công nghệ sinh 
học của Cộng đồng châu Âu 1998 quy định có 
thể cấp patent cho giải pháp kỹ thuật, nếu giải 
pháp này không giới hạn trong một giống thực 
vật cụ thể. Như vậy, nếu trong trường hợp pháp 
luật Việt Nam quy định có thể cấp patent cho 
giải pháp kỹ thuật có liên quan đến giống thực 
vật thì cần cụ thể hóa Điều 25.6.c Thông tư 
01/2007 theo hướng: giải pháp kỹ thuật được coi 
là đạt trình độ sáng tạo nếu chức năng, mục đích 
và hiệu quả của giải pháp đó không giới hạn 
trong một giống thực vật cụ thể. 
4.2. Giải pháp kỹ thuật đối với trình độ sáng 
tạo của bài thuốc cổ truyền 
Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy các đơn 
đăng ký sáng chế có liên quan đến bài thuốc cổ 
truyền của Việt Nam bị từ chối bảo hộ vì mất 
tính mới và/hoặc không đạt trình độ sáng tạo 
theo quy định của Thông tư 01/2007. Để sáng 
chế bài thuốc cổ truyền đạt trình độ sáng tạo 
được bảo hộ, cần thực hiện các giải pháp về 
mặt kỹ thuật bằng cách loại bỏ yếu tố “hiển 
nhiên” khi đánh giá trình độ sáng tạo của bài 
thuốc cổ truyền, với các yêu cầu cụ thể: 
- Chứng minh được việc tạo ra sáng chế 
bài thuốc cổ truyền không thuộc tiến trình phát 
triển thông thường của công nghệ, không mang 
tính đơn giản hoặc logic từ các giải pháp kỹ 
thuật đã biết; 
- Chứng minh sáng chế bài thuốc cổ truyền 
là sự kết hợp các giải pháp kỹ thuật đã biết với 
nhau theo cách không hiển nhiên, do đó sáng 
chế bài thuốc cổ truyền đạt trình độ sáng tạo. 
5. Kết luận 
Trình độ sáng tạo là một trong các điều 
kiện để sáng chế bài thuốc cổ truyền được cấp 
patent, việc bảo hộ các bài thuốc cổ truyền của 
Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa 
học, mà còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội. 
Để các bài thuốc cổ truyền của Việt Nam 
được bảo hộ, rất cần nghiên cứu kinh nghiệm, 
tham khảo pháp luật quốc tế, pháp luật của một 
số quốc gia trong lĩnh vực có liên quan, để 
chỉnh sửa các quy định hiện hành của pháp luật 
về SHTT.,. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trần Văn Hải, Tính mới trong việc bảo hộ sáng 
chế đối với các bài thuốc cổ truyền của Việt 
Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà 
Nội, Chuyên san Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 
81-89. 
T.V.Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học,Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 71
[2] WIPO, Report on Fact-finding Missions on IP 
and Traditional Knowledge, Geneva (2001), 
p.25: Categories of traditional knowledge could 
include:  medicinal knowledge, including 
related medicines (Phạm trù tri thức truyền 
thống có:  y học cổ truyền, trong đó có liên 
quan đến y tế). 
[3] Xin tham khảo thêm: Jerry I.-H. Hsiao, Queen 
Mary Intellectual Property Research Institute, 
University of London, Patent Protection for 
Chinese Herbal Medicine Product Invention in 
Taiwan (Bảo hộ patent đối với sáng chế bài 
thuốc thảo dược Trung Hoa tại Đài Loan), The 
Journal of World Intellectual Property (2007) 
Volume 10, number 1, p. 1–21. 
[4] Biswas, K., I. Chattopadhyay, R. K. Banerjee, 
U., Bandyopadhyay, Biological Activities and 
Medicinal Properties of Neem (Azadirachta 
indica) - Các hoạt động sinh học và dược tính 
của Neem (Azadirachta indica), Current Sciense, 
ISSN 1336-1345 (2002), 82. 
[5] Xin tham khảo thêm mục Total Patents on Neem 
(tổng số patent được cấp cho cây neem) của các 
tác giả Ompal Singh, Zakia Khanam, Jamal 
Ahmad, Neem (Azadirachta indica) in Context of 
Intellectual Property Rights, Recent Research in 
Science and Technology, volume 3(6), ISSN 
2076-5061 (2011), 80. 
[6] Jiang F. The Problem with Patents. Traditional 
Knowledge and International IP Law (Vấn đề đối 
với Bằng độc quyền sáng chế. Tri thức truyền 
thống và Luật Sở hữu trí tuệ quốc tế), Harvard 
International Review, ISSN 0739-1854 (2008) 
30. Lợi nhuận mà Eli Lilly & Company thu được 
mỗi năm đến 20 tỷ USD là con số đến khó tin, 
bởi vậy tác giả (Trần Văn Hải) xin trích nguyên 
văn bằng tiếng Anh được ghi tại trang 30 của tài 
liệu đã nêu: “ Eli Lilly & Company isolated 
two extracts from Madagascar’s rosy periwinkle 
(vinblastine and vincristin) that have since 
become powerful drugs - one to treat childhood 
leukaemia, and the other to treat Hodgkin’s 
disease. Together, these drugs generate over 20 
billion US dollars in revenue each year”. 
[7] PCT Gazette International Search Guidelines, 
Chapter VI, paragraph 1.2. quy định: 
“traditional knowledge can be used 
internationally only if the oral accounts are 
substantiated by a written description” (tri thức 
truyền thống có thể được sử dụng quốc tế chỉ khi 
nếu nó được chứng minh thông qua mô tả bằng 
văn bản). 
[8] Dennis v Pitner 106 F 2d 142 (7th Cir 1939) 308 
US 606/1939 150 
[9] Article 53 (b) of the EPC: patent shall not be 
granted: “For plants or animals varieties or 
essentially biological processes for the 
production of plants or animals; this provision 
does not apply to microbiological processes or 
the products thereof” (Điều 53b. EPC quy định 
không cấp patent đối với giống thực vật hoặc 
giống động vật hoặc các quá trình sinh học cơ 
bản để sản xuất thực vật hoặc động vật, quy định 
này không áp dụng cho các quá trình vi sinh vật 
hoặc các sản phẩm của chúng. 
[10] A 4(2) Biotechnology Directive 98/44/EC: 
“Inventions, which concern plants or animals, 
shall be patentable if the technical feasibility of 
the invention is not confined to a particular plant 
or animal variety” (Các sáng chế đề cập đến thực 
vật hoặc động vật, có thể được cấp patent nếu 
giải pháp kỹ thuật của sáng chế không giới hạn 
bởi một giống thực vật cụ thể hoặc giống động 
vật). 
[11] Trần Văn Hải (2013), bài đã dẫn. 
[12] Tham khảo và cụ thể thêm từ: Swaireeta Dutta, 
The Turmeric Patent is just the first step in 
stopping Biopiracy (Các Bằng độc quyền sáng 
chế nghệ chỉ là bước đầu tiên trong việc ngăn 
chặn Biopiracy), School of Law, Kalinga 
Institute of Industrial Technology, 
Bhubaneswar, India (2011). 
[13]  
[14] Nguyên văn tiếng Anh: the present invention 
relates to the use of turmeric to augment the 
healing process of chronic and acute wounds. 
[15] Trần Văn Hải (2013), bài đã dẫn. 
[16] 
T.V. Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 
72
Discussion on the Innovative Level in Patent Protection 
for Vietnamese Traditional Medicine Products 
Trần Văn Hải 
VNU University of Social Sciences and Humanities, 
336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam 
Abstract: The research proposes the solution so that Vietnam’s traditional medicine products can 
be able to reash the level where patent is granted in accordance with the law, at the same time to 
guarantee the legal rights and interests of Vietnam concerning the traditional medicine products when 
other countrys have the tendency to appropriate the traditional knowledge. 
To achieve this objective, the article focuses on such tasks as: 
- To analyze the regulations under international law, the law of Vietnam and other countries in 
order to find out the differences and inadequacies for the assessment of innovative level of Vietnamese 
trasitional medicine products. 
- To analyze practical cases occurred abroad and in Vietnam when assessing the innovative level 
of the traditional medicine products, analyzing reasons in the legal perspective that leads to the fact 
that a number of applications of registering the protection of the innovation and patent of the Vietnam 
traditional medicine products has been denied 
- To propose the solutions to achieve the research objectives. 
Keywords: Innovative, patent protection, traditional medicine products. 

File đính kèm:

  • pdfban_ve_trinh_do_sang_tao_trong_viec_bao_ho_sang_che_doi_voi.pdf